Lịch sử Việt Nam thời Lê Sơ (Tkỷ XV)

0

Lịch sử Việt Nam thời Lê Sơ

Tình hình chính trị

Tháng 4/1428, Lê Lợi lên ngôi vua, hiệu là Thái Tổ, đặt niên hiệu là Thuận Thiên, khôi phục lại quốc hiệu Đại Việt.

– Tổ chức chính quyền: Ngay từ đầu thời Lê, bộ máy chính quyền đã khá chặt chẽ từ trung ương đến các làng xã. Tất cả quyền hành đều tập trung về tay triều đình trung ương.

Đứng đầu triều đình là vua, rồi đến các chức tả, hữu Tướng quốc, Tam tư, Tam thái, Tam thiếu dành riêng cho các tôn thất và đại công thần. Tiếp đến là các quan lại chia thành hai ngạch: văn ban và võ ban. Đứng đầu văn ban là Đại hành khiển, rồi đến Thượng thư các bộ và các cơ quan chuyên trách (Khu mật viện, Ngũ hình viện, Hàn lâm viện, Ngự sử đài, Quốc tử giám…). Đứng đầu ban võ là Đại tổng quản, Đại đô đốc, Đô tổng quản chỉ huy quân thường trực ở kinh thành và quân ở các đạo, ngoài ra còn có các võ tướng cao cấp khác.

Nhìn chung, bộ máy nhà nước thời Lê Lợi vẫn chủ yếu dựa vào quy chế tổ chức của các triều đại Lý – Trần. Càng về sau, bộ máy ấy càng được củng cố theo hướng tập quyền nhằm tập trung hơn nữa quyền hành vào tay vua và tăng tính chuyên chế. Năm 1471, Lê Thánh Tông tiến hành cải cách hành chính. Các cơ quan trung gian và các chức Tể tướng, Tam tư, Đại hành khiển…đều bị bãi bỏ. Mọi việc trong nước được giao cho 6 bộ (Hộ, Lại, Lễ, Binh, Hình, Công). Vua trực tiếp làm việc với 6 bộ, giúp việc cho 6 bộ có 6 tự (Đại Lý, Quang Lộc, Thái Lô, Hồng Lô, Thái Thường, Thượng Bảo). Để giám sát các quan lại nói chung có Ngự sử đài và 6 khoa. Hàn lâm viện và Quốc tử giám vẫn giữ nguyên như trước.

Ở địa phương, năm 1466, Lê Thánh Tông chia cả nước thành 12 đạo: Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Hải Dương, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Lạng Sơn, An Bang, Thái Nguyên. Năm 1471, lập thêm đạo Quảng Nam. Ở các đạo, nhà nước đặt 3 ty: Đô ty (phụ trách quân đội), Hiến ty (phụ trách xét xử, kiện tụng), Thừa ty (phụ trách hành chính). Dưới đạo có phủ, châu, huyện. Bên cạnh đó, Thánh Tông còn cho đổi lộ làm phủ, trấn làm châu…

Quan lại được tuyển chọn qua nhiều con đường: tuyển cử, tập ấm, bảo cử… song chủ yếu là qua thi cử. Nhờ chế độ khoa cử, nhà Lê đã tuyển chọn được đội ngũ quan lại có năng lực làm việc trong bộ máy nhà nước. Do vậy, chính quyền thời Lê là một hệ thống chính quyền phong kiến chuyên chế tập trung cao độ, thể hiện sức mạnh chi phối từ trung ương đến địa phương.

– Luật pháp: Năm 1483, nhà nước ban hành bộ Lê triều hình luật hay còn gọi là bộ luật Hồng Đức. Bộ luật này gồm 722 điều, chia làm 6 quyển và 16 chương. Nội dung chủ yếu của bộ luật là nhằm bảo vệ quyền thống trị của nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, bảo vệ độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ. Những hành động chống lại triều đình bị ghép vào tội thập ác (10 tội nghiêm trọng nhất), bị xử tử không được ân giảm trong bất cứ trường hợp nào. Bộ luật còn bảo vệ lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến, đặc quyền của tầng lớp quý tộc quan liêu, đồng thời củng cố trật tự xã hội phong kiến, bảo vệ chế độ gia tộc phụ quyền, các nguyên tắc về đạo đức phong kiến và tôn trọng địa vị của người phụ nữ. Bộ luật Hồng Đức được xem là bộ luật xưa nhất còn lại ở nước ta hiện nay. Đây cũng là bộ luật tiến bộ nhất, hoàn chỉnh nhất của thời kỳ xây dựng và phát triển chế độ phong kiến ở Việt

– Quân đội: được tổ chức quy củ và chặt chẽ. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất nước, đầu năm 1429, Lê Lợi cho 25 vạn quân về quê làm ruộng, giữ lại 10 vạn quân thường trực. Số quân thường trực chia thành 6 đạo. Đạo quân ngự tiền đóng ở kinh thành, có nhiệm vụ bảo vệ kinh đô và nhà vua; 5 đạo còn lại đóng giữ ở các địa phương. Quân đội chia làm 5 phiên, cứ lần lượt thay nhau, 4 phiên về quê làm ruộng còn 1 phiên ở lại thường trực. Mỗi khi có việc dụng binh, nhà nước mới điều động toàn bộ quân đội.

Đến thời Lê Thánh Tông, năm 1466, hệ thống tổ chức quân đội được cải tổ lại. Quân đội toàn quốc chia làm 2 loại: thân binh (cấm binh) bảo vệ kinh thành và ngoại binh trấn giữ các xứ. Quân số các đơn vị được quy định thống nhất. Chế độ tập và huấn luyện quân đội cũng được quy định chặt chẽ. Tất cả các hạng quân đội được chia theo thứ bậc và được cấp ruộng. Các võ quan cũng được cấp lộc điền như các quan lại khác. Với số ruộng khẩu phần được chia, quân đội thời Lê được thay phiên nhau về quê làm ruộng theo chính sách “ngụ binh ư nông” để đáp ứng nhu cầu tự cung, tự cấp. Nhìn chung, nhà Lê có một lực lượng quân đội hùng mạnh, cộng với chính sách kiên quyết của nhà nước đã góp phần gìn giữ, bảo vệ lãnh thổ.

– Đối ngoại:

Đối với các dân tộc thiểu số, nhà Lê thực hiện chính sách hai mặt: một mặt là mua chuộc, nắm lấy các tù trưởng (tầng lớp thống trị) để bắt họ nộp cống phú; mặt khác, dùng vũ lực để trấn áp những hành động phản kháng, những cuộc nổi dậy của các dân tộc thiểu số.

Đối với các nước láng giềng: trước hết đối với nhà Minh, nhà Lê vẫn giữ thái độ hòa hiếu. Sau ngày thắng lợi, Lê Lợi cử sứ bộ sang nhà Minh cầu phong, giữ đúng lễ triều cống nhưng vẫn luôn giữ vững độc lập chủ quyền. Đối với các nước Chiêm Thành ở phía Nam và Ai Lao, Bồn Man phía Tây Nam, khi các sứ giả sang triều cống, nhà Lê tiếp đón ân cần. Các nước này đều xin thần phục nhà Lê. Tuy nhiên, từ đời vua Nhân Tông, quan hệ có phần căng thẳng, tranh chấp biên giới diễn ra và biến thành những cuộc xâm lấn đất đai dưới thời Lê Thánh Tông.

Tình hình kinh tế

* Ruộng đất và nông nghiệp:

Sau khi giành thắng lợi, để khôi phục và phát triển kinh tế, Lê Lợi đã xuống chiếu kêu gọi dân phiêu tán trở về quê cũ làm ăn, đồng thời cho 25 vạn quân giải ngũ về quê làm ruộng. Lê Lợi còn sai tịch thu ruộng đất của quan lại nhà Minh, của Việt gian, ruộng bỏ hoang và cả ruộng đất của quý tộc Trần sung làm ruộng công, chia cho dân cày cấy. Ruộng đất thời Lê được chia làm 2 bộ phận: ruộng công và ruộng tư.

Ruộng đất công gồm hai loại: ruộng thuộc sở hữu nhà nước và ruộng làng xã. Ruộng nhà nước được chia làm 3 phần: phần do nhà nước trực tiếp quản lý và thu thuế; phần ban cấp cho các công thần khai quốc, phần làm ruộng lộc cho quan lại (lộc điền). Ngoài ra còn có một bộ phận ruộng đồn điền, thời Lê có 43 sở đồn điền. Ruộng làng xã là bộ phận quan trọng nhất của nhà nước. Nhà Lê đặt quy chế phân chia ruộng đất làng xã, tiêu biểu là chính sách “quân điền” thời Lê Thánh Tông. Chính sách này đã phát huy được tính tích cực, giải quyết vấn đề ruộng đất cho nhân dân và tạo điều kiện cho kinh tế nông ngiệp phát triển.

Ruộng đất tư thời Lê khá phát triển. Nhà nước ra sức khuyến khích khai hoang, tạo điều kiện cho những người có của chiêu mộ dân nghèo đi khai khẩn nên diện tích ruộng tư ngày càng tăng. Thêm vào đó, chính sách ban cấp ruộng đất của nhà nước cũng góp phần làm gia tăng lực lượng địa chủ, nhất là địa chủ quan lại.

Về nông nghiệp: nhà Lê ban hành nhiều chính sách, biện pháp nhằm khôi phục và phát triển nền kinh tế nông nghiệp. Các chức Hà đê sứ, Khuyến nông sứ có trách nhiệm chăm lo phát triển nông nghiệp. Công tác đê điều và thủy lợi được nhà nước quan tâm hàng đầu, nhiều đê biển được xây dựng (đê Hồng Đức, nay còn dấu tích tại Nam Định, Ninh Bình), phục vụ đắc lực cho công tác khai hoang. Năm 1498, nhà nước quy định mỗi xã phải đặt một Xã trưởng chuyên chăm lo sản xuất nông nghiệp, không để ruộng đất bỏ hoang. Vào những tháng mùa màng, cày cấy, nhà nước đình hoãn mọi công dịch để tập trung sức lao động cho sản xuất nông nghiệp. Thậm chí, hàng năm vào đầu xuân, nhà vua đích thân làm lễ tịch điền để mở đầu mùa cày cấy cho nhân dân. Chính sách trọng nông và những biện pháp tích cực của nhà Lê đã làm cho nền nông nghiệp nhanh chóng phục hồi, sản xuất phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao.

* Công thương nghiệp thời Lê phát triển mạnh. Các ngành nghề thủ công truyền thống như ươm tơ, dệt vải, rèn sắt, làm giấy… được phục hồi và phát triển mạnh trong nhân dân. Một số làng thủ công ra đời và hoạt động sôi nổi: Bát Tràng, Hương Canh, Huê Cầu… Ở các thị trấn, nhiều thợ thủ công nhóm họp lại, tổ chức thành những phường chuyên môn. Thành Thăng Long thời Lê có 36 phường, mỗi phường làm một nghề nhất định.

Bên cạnh đó, nhà nước còn thành lập Cục bách tác, chuyên lo sản xuất các mặt hàng thủ công thiết yếu phục vụ nhu cầu của triều đình (đúc tiền, rèn vũ khí, đóng chiến thuyền, may quần áo vua quan). Lực lượng lao động trong các xưởng này là những công tượng, công nô.

Đặc biệt thời Lê, giao lưu buôn bán giữa các vùng phát triển mạnh. Nhiều trung tâm buôn bán hình thành: Thăng Long (Hà Nội), Vân Đồn (Quảng Ninh), Hội Thống (Nghệ An)… Nhà nước cho đúc tiền mới để lưu hành, các đơn vị đo lường được thống nhất. Về ngoại thương, nhà Lê thực hiện chính sách “bế quan tỏa cảng”. Mặc dù vậy, thuyền buôn các nước láng giềng như Trung Quốc, Gia Va vẫn ra vào buôn bán với nước ta. Các sản phẩm tơ lụa, sành sứ, lâm sản quý vẫn là những hàng hóa hấp dẫn đối với các thương nhân nước ngoài.

Nhìn chung, dưới thời Lê, kinh tế hàng hóa vẫn phát triển hơn trước. Quan hệ hàng hóa – tiền tệ đã thâm nhập vào nông thôn và tác động tới hầu hết các tầng lớp nhân dân.

Tình hình văn hóa – xã hội

* Văn hóa:

– Giáo dục: Chế độ giáo dục và thi cử thời Lê Sơ khá phát triển. Năm 1428, sau khi giành thắng lợi, Lê Lợi hạ lệnh dựng lại Quốc tử giám và mở trường học ở các lộ. Năm 1429, mở khoa thi Minh Kinh để khảo sát các quan lại (tứ phẩm trở xuống) và tuyển

chọn nhân tài bổ sung vào bộ máy nhà nước. Trải qua các đời vua, chế độ thi cử được tổ chức đều đặn (3 năm 1 lần) và có quy củ. Nhà nước còn khuyến khích việc học bằng cách định lệ: xướng danh, vinh quy, dựng bia tiến sĩ.

Thời Lê Sơ, đặc biệt là thời Lê Thánh Tông, là thời kỳ thịnh đạt của nền giáo dục – khoa cử của chế độ phong kiến Việt Nam. Sự phát triển của giáo dục đã đào tạo ra nhiều nhân tài, bổ sung vào bộ máy phong kiến quan liêu đang phát triển, nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân.

– Văn học, sử học:

Đây là thời kỳ phát triển rực rỡ của nền văn học. Nhiều tác phẩm văn học chữ Hán tiêu biểu cho tinh thần quật khởi, tự cường dân tộc ra đời: Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh, Ức Trai thi tập của Nguyễn Trãi. Trong đó, Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn đã để lại nhiều tác phẩm thơ văn chữ Hán xuất sắc như: Quỳnh uyển cửu ca, Văn minh cổ súy, Xuân vân thi tập. Bên cạnh đó, văn học chữ Nôm cũng phát triển, tiêu biểu có: Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Hồng Đức quốc âm thi tập và Thập giới cô hồn quốc ngữ văn của Lê Thánh Tông. Nhìn chung, văn học thời Lê thể hiện sâu sắc tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc và ca ngợi cảnh thái bình thịnh trị của chế độ phong kiến.

Sử học thời Lê cũng phát triển mạnh. Nhà nước có Quốc sử viện để chăm lo việc biên soạn lịch sử dân tộc. Nhiều bộ sử lớn ra đời như: Đại Việt Sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Lam Sơn thực lục của Nguyễn Trãi, Việt giám thông khảo của Vũ Quỳnh… Dư địa chí của Nguyễn Trãi là bộ lịch sử địa lý đầu tiên của Việt Nam. Thiên Nam dư hạ tập gồm 100 quyển ghi chép lại toàn bộ những điều lệ, chính sự thời Lê Thánh Tông. Ngoài ra, Hồng Đức bản đồ, Đại thành toán pháp là những thành tựu khoa học có giá trị.

– Tôn giáo, tín ngưỡng: Cùng với sự phát triển của chế độ phong kiến, Nho giáo ngày càng phát triển. Thời Lê, Nho giáo được nhà nước đề cao và chiếm địa vị độc tôn. Giai cấp thống trị lấy Nho giáo làm cơ sở lý luận, nền tảng đạo đức nhằm củng cố trật tự xã hội và bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Để củng cố địa vị độc tôn của Nho giáo, Lê Thánh Tông ban “24 điều giáo huấn”, giao cho các xã trưởng hàng năm giáo dục cho xã dân. Phật giáo, đạo giáo và các tín ngưỡng cổ truyền vẫn tiếp tục được duy trì và phát triển trong nhân dân.

* Xã hội: Thời Lê, sự phân hóa xã hội ngày càng rõ rệt. Xã hội chia thành 2 giai cấp chính: địa chủ và nông dân.

Giai cấp địa chủ là giai cấp thống trị, nắm chính quyền. Đa số tầng lớp quan lại trong bộ máy nhà nước đều xuất thân từ địa chủ. Giai cấp địa chủ nắm trong tay nhiều ruộng đất để tiến hành bóc lột địa tô đối với nông dân.

Giai cấp nông dân chiếm đa số trong xã hội. Đó là những nông dân tự canh, tá điền. Họ nhận ruộng của các địa chủ để cày cấy và nộp tô cho chủ. Nông dân chính là lực lượng sản xuất chính, đóng thuế và đi lao dịch cho nhà nước.

Ngoài ra còn có các tầng lớp: thương nhân, thợ thủ công, một số dân nghèo và nô tỳ. Trong đó, nô tỳ là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội. Họ không được hưởng quyền lợi của một người dân, không được pháp luật bảo vệ. Phần lớn họ được dùng để phục dịch trong nhà, trong dinh thự, cung điện. Phải đến đầu thế kỷ XVI, chế độ nô tỳ ở nước ta mới được xóa bỏ.

Nhìn chung, xã hội thời Lê tương đối ổn định, đời sống nhân dân được cải thiện và hầu như trong suốt thế kỷ XV, không nổ ra cuộc khởi nghĩa nông dân nào xảy ra.

(Nguồn tham khảo: Trần Văn Thức, Giáo trình tiến trình lịch sử Việt Nam)

Rate this post

Leave A Reply

Your email address will not be published.