Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mĩ (1969-1972)
Miền Nam Việt Nam chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”.
Sau đòn bất ngờ, choáng váng của quân và dân miền Nam từ Tết Mậu Thân năm 1968, đế quốc Mĩ đứng trước một tình thế hết sức khó khăn. Phong trào chống chiến tranh xâm lược Việt Nam, đòi rút hết quân đội viễn chinh về nước lan rộng trong các tầng lớp nhân dân Mĩ. Hạ nghị viện Mĩ cũng ra nghị quyết đòi rút tất cả quân đội Mĩ trên bộ ở Việt Nam về nước trong thời gian ngắn nhất.
Bạn đang xem: Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mĩ (1969-1972)
Tình trạng bi đát của quân đội Mĩ ở Việt Nam cùng với những thay đổi về so sánh lực lượng trên thế giới không có lợi cho chủ nghĩa đế quốc đã làm cho giới cầm quyền Mĩ nhận thấy cần phải đổi mới trong chiến lược toàn cầu, với hy vọng vừa ổn định được tình hình trong nước, tránh được dư luận đả kích từ nhiều phía, vừa bảo đảm được vai trò “Sen đầm quốc tế” và giữ được nguyên trạng miền Nam Việt Nam trong quỹ đạo của chủ nghĩa thực dân mới Mĩ.
Vì vậy, ngay sau khi nhậm chức Tổng thống (l-1969), Níchxơn cho ra đời học thuyết mang tên mình: “Học thuyết Níchxơn “. Với học thuyết này, Níchxơn đề ra một chiến lược toàn cầu mới, chiến lược quân sự “Ngăn đe thực tế” (thay cho chiến lược “Phản ứng linh hoạt” đã bị phá sản), với ba nguyên tắc cơ bản: Sức mạnh của Mĩ , chia sẻ trách nhiệm, sẵn sàng thương lượng trên thế mạnh.
Học thuyết Níchxơn được áp dụng ở Việt Nam trên cơ sở điều chỉnh chính sách “phi Mĩ hoá” của Giônxơn thành “Việt Nam hoá chiến tranh” của Níchxơn; ở Lào là “Lào hoá chiến tranh”; ở Campuchia là “Khơme hoá chiến tranh” và trên toàn Đông Dương là “Đông Dương hoá chiến tranh”. Mĩ dự định thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” qua ba giai đoạn, trong đó giai đoạn 1 (từ năm 1969 đến giữa năm 1972) là quan trọng nhất.
Quá trình “phi Mĩ hoá” chiến tranh, rút dần quân viễn chinh về nước cũng là quá trình tăng cường lực lượng quân ngụy, làm cho quân ngụy từng bước có khả năng thay thế quân Mĩ để đảm nhận cuộc chiến tranh. Cho nên, “Việt Nam hoá chiến tranh”, về thực chất, chính là tăng cường chính sách dùng người Việt đánh người Việt.
Tuy nhiên, trong thời kì đầu của “Việt Nam hoá chiến tranh”, quân Mĩ vẫn còn đóng vai trò quan trọng, cùng với quân ngụy là hai lực lượng chiến lược. Trong quá trình thực hiện, quân Mĩ rút dần về nước và quân ngụy sẽ từng bước thay thế đảm nhận cuộc chiến tranh. Để đạt được mục tiêu chiến lược của “Việt Nam hoá chiến tranh”, đế quốc Mĩ dùng mọi thủ đoạn độc ác về quân sự, chính trị, rất xảo quyệt và nham hiểm về ngoại giao, thực hiện sự kết hợp “chiến tranh huỷ diệt” với “chiến tranh giành dân” và ” chiến tranh bóp nghẹt”.
Trong quá trình thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, đế quốc Mĩ áp dụng 4 biện pháp cơ bản:
1- Tăng cường viện trợ quân sự, tăng cường phát triển lực lượng ngụy quân. Chỉ trong vòng 4 năm (1969 – 1972), số quân thường trực (chủ lực và bảo an) từ 70 vạn tăng lên 110 vạn tên; lực lượng nửa vũ trang (phòng vệ dân sự) từ 150 vạn tăng lên 200 vạn quân.
2- Tăng cường viện trợ kinh tế, giúp ngụy quyền thực hiện cho được bình định, giành đất, giành dân. Bình định là một chính sách cơ bản của chủ nghĩa thực dân mới M. Trong tất cả các thời kì của cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam, bình định được Mĩ ngụy nâng lên thành quốc sách.
Để thực hiện “quốc sách bình định”, đế quốc Mĩ giúp ngụy quyền miền Nam thiết lập một hệ thống chính trị và vũ trang hoàn chỉnh ở cơ sở, được huấn luyện kiểu thống trị của chủ nghĩa thực dân mới. Thủ đoạn của chúng là mua ruộng đất của địa chủ rồi bán cho một bộ phận trong giai cấp nông dân, đồng thời đưa kĩ thuật mới, giống mới, máy cày tay, máy bơm, phân hoá học… tạo nên một tầng lớp nông dân mới lệ thuộc vào Mĩ.
Mặt khác, lợi dụng sai lầm của ta chậm chuyển hướng tiến công sau Tết Mậu Thân, bỏ lỏng vùng nông thôn, trong suốt 2 năm (giữa năm 1968 đến đầu năm 1970), Mĩ – ngụy tiến hành liên tiếp các kế hoạch “bình định cấp tốc”, “bình định đặc biệt”, “bình định bổ sung” rất quyết liệt. Đồng thời, chúng kết hợp mở các cuộc hành quân càn quét, đóng hàng ngàn đồn bốt (từ 4.954
lên 9.224 đồn), chiếm lại hầu hết vùng nông thôn của ta, kìm kẹp thêm dân, kiểm soát thêm nhiều vùng. Đây là cuộc phản công rất quyết liệt, huỷ diệt tàn khốc của địch bằng sức mạnh toàn diện, chủ yếu là sức mạnh quân sự, vào địa bàn nông thôn, là cuộc” chiến tranh giành dân”, “chiến tranh huỷ diệt” trên quy mô lớn với những biện pháp cực kì dã man và thâm độc, gây cho ta những khó khăn, tổn thất nặng nề. Địch chiếm lại phần lớn vùng nông thôn rộng lớn, kể cả vùng ta mới mở trong Tết Mậu Thân và vùng giải phóng trước đó. Riêng ở Khu VIII (miền Trung Nam Bộ), địch chiếm lại 119 xã và 680 ấp, chỉ còn 4 xã và 312 ấp giải phóng. Ở Nam Bộ, trong 2 năm 1969-1970, số thương vong của ta gấp 2 lần 7 năm trước (1961 – 1967); địch chiếm thêm gần 3.000 ấp, kiểm soát thêm gần 3 triệu dân. Hầu hết các đơn vị chủ lực của ta hoặc phải kéo ra miền Bắc để củng cố, hoặc chuyển sang bên kia biên giới; thế và tấn công của cách mạng miền Nam bị giảm sút.
3- Ngăn chặn mọi nguồn tiếp tế, chi viện đối với cách mạng miền Nam bằng cách rải mìn phong toả bờ biển và các cửa sông miền Bắc Việt Nam; mở rộng chiến tranh sang Lào và Campuchia, thực hiện âm mưu “dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương”.
Ở Lào, cuộc chiến tranh xâm lược của Mĩ dưới hình thức “chiến tranh đặc biệt” bắt đầu diễn ra từ năm 1964, dưới thời Tổng thống Kennơđi và Giôn xơn. ừ năm 1969, dưới thời Ních xơn, ế quốc Mĩ đẩy chiến” tranh đặc biệt” lên đến mức cao nhất, gọi là “chiến tranh đặc biệt tăng cường” (“Lào hoá chiến tranh”), được tiến hành bằng lực lượng phỉ Vàng Pho (“/ ao lượng đặc biệt”) và quân ngụy Viên Chăn, có sự tham gia của quân đội lính đánh thuê Thái Lan và quân ngụy Sài Gòn. Mĩ đóng vai trò chỉ huy thông qua hệ thống cố vấn và yểm trợ bằng hoả lực và không quân.
Cùng với hành động mở rộng chiến tranh sang Lào, đế quốc Mĩ mở rộng chiến tranh xâm lược Campuchia. Không bao lâu sau cuộc đảo chính lật đổ Chính phủ trung lập tích cực do Xihanúc đứng đầu (18-3-1970), từ ngày 30-4-1970, đế quốc Mĩ huy động 10 vạn quân Mĩ – ngụy Sài Gòn mở cuộc hành quân đánh sang Campuchia. Với hành động này, chúng nhằm cứu vãn sự sụp đổ của ngụy quyền Phnom Pênh, triệt phá “đất thánh Việt Cộng” trên đất Campuchia, chuẩn bị cho việc thực hiện chiến lược “Khơme hoá chiến tranh”.
4- Đẩy mạnh hoạt động ngoại giao xảo quyệt; ra sức lợi dụng mâu thuẫn Trung – Xô, tìm cách thoả hiệp với Trung Quốc, hoà hoãn với Liên Xô hòng hạn chế sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa đối với cuộc kháng chiến của ta để thực hiện “chiến tranh bóp nghẹt”. Mặt khác, đóng vai trò “sứ giả hoà bình”, Níchxơn đi thương lượng với nhiều nước, trước hết là với các nước lớn, nhằm lôi kéo các nước, nhất là các nước đồng minh “cùng chia sẻ trách nhiệm” với Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương…
Như vậy “Việt Nam hoá chiến tranh” là một chính sách tổng hợp tất cả những yếu tố được coi như là bản chất phản động nhất của đế quốc Mĩ. Đó là bạo lực phản cách mạng, hệ tư tưởng chống chủ nghĩa cộng sản triệt để, là chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc.
Tuy được tiến hành bằng những thủ đoạn rất xảo quyệt và thâm độc, nhưng nó ra đời trong thế thua, thế bị động và chứa đầy mâu thuẫn, bộc lộ nhiều điểm yếu: – Trước đây, trong chiến lược “chiến tranh cục bộ”, hơn 1,2 triệu quân cả Mĩ và ngụy (trong đó có hơn 50 vạn quân Mĩ ) đã không thể tiêu diệt được lực lượng cách mạng miền Nam, thì khi quân Mĩ rút dần về nước, quân ngụy càng không thể mạnh hơn và thay thế được Mĩ để làm việc đó.
Trước đây, trong thời kì “chiến tranh cục bộ”, đảng Dân chủ của Giônxơn có thế lực mạnh và là đảng cầm quyền ở Mĩ ; Giônxơn được Quốc hội trao cho quyền hành rất lớn đã huy động khối lượng lớn sức người, sức của để mong tìm được thắng lợi, nhưng vì thất bại nặng nề, Giônxơn phải tuyên bố chính sách “phi Mĩ hoá”, rút dần quân viễn chinh về nước. Đến thời Níchxơn, đảng Cộng hoà lên cầm quyền trong tình hình không thuận lợi như thời Giônxơn. Đảng Dân chủ tuy đã bị loại ra khỏi Nhà Trắng, nhưng vẫn còn thế lực mạnh; nhiều nghị sĩ thuộc Đảng Dân chủ vẫn lên tiếng phản đối cuộc chiến tranh của Níchxơn. Vì vậy, điều mà trước đây Giônxơn đã không làm được thì Níchxơn càng không thể thực hiện được.
– Việc mở rộng chiến tranh sang Lào và Campuchia, thực hiện chiến lược “Đông Dương hoá chiến tranh”, càng làm cho nhân dân ba nước trên bán đảo Đông Dương căm thù đế quốc Mĩ; nhân dân ba nước càng gắn bó chặt chẽ với nhau hơn để cùng chống kẻ thù chung.
– Trước đây, với chiến lược “tìm diệt” và “bình định”, giới cầm quyền Mĩ đã không thực hiện được mục đích chiếm đất, giành dân; nay chuyển sang chiến lược “quét và giữ” hoàn toàn phòng ngự bị động thì chúng lại càng không thể đạt được mục đích ấy.
Trong nước Mĩ, khi thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, phong trào chống chiến tranh xâm lược Việt Nam của nhân dân Mĩ vốn đã có từ năm 1965, đã bùng lên mạnh mẽ, thực sự trở thành “Một cuộc chiến tranh trong lòng nước Mĩ”, làm rung chuyển xã hội Mĩ. Bên cạnh phong trào đấu tranh rầm rộ của công nhân và nhân dân lao động, phong trào người Mĩ da đen, còn nổ ra phong trào sinh viên đòi quyền dân chủ và chống chiến tranh xâm lược Việt Nam. Phong trào lan rộng khắp các trường đại học ở Mĩ và lan sang các trường trung học, trở thành hạt nhân của phong trào thanh niên Mĩ đấu tranh ngày càng quyết liệt với những hành động đốt thẻ quân dịch. Phong trào đấu tranh của nhân dân Mĩ tác động mạnh đến hàng ngũ binh lính trong nước Mĩ và cả chiến trường miền Nam Việt Nam.
Hành động chống chiến tranh trong binh lính Mĩ phát triển mạnh chưa từng thấy trong lịch sử nước Mĩ. Hàng chục tổ chức binh lính chống chiến tranh ra đời ở các đơn vị lính Mĩ ở miền Nam Việt Nam. Trong lúc cựu binh sĩ Mĩ từ Việt Nam về nước vứt bỏ huân chương, huy chương trước Nhà Trắng, thì ở Việt Nam, vào ngày 15-10-1969, binh lính Mĩ tổ chức đeo băng tang.
Đặc biệt ở Mĩ, từ giữa tháng 10-1969, đã bùng nổ “cuộc tiến công mùa thu” diễn ra với quy mô rộng lớn và có cơ sở rộng rãi chưa từng thấy trên 1.200 thành phố, thị xã của 53 bang nước Mĩ.
Mặc dù vậy, trước mắt Mĩ – ngụy vẫn còn có những chỗ mạnh về quân số, hoả lực, khả năng cơ động và địa bàn chiếm giữ. Mĩ là một nước có tiềm lực rất lớn về kinh tế và quân sự.
Bởi thế, trong những năm 1969 – 1971, đế quốc Mĩ đã gây cho ta nhiều khó khăn: Cơ sở của ta ở nông thôn bị tổn thất, căn cứ cách mạng bị phá hoại, phong trào quần chúng bị giảm sút.
Trong khi đó, chúng ta chưa đánh giá hết âm mưu và hoạt động của địch và chưa kịp thời chuyển hướng -hoạt động ở cả ba vùng chiến lược.
Đứng trước âm mưu và hành động mới của đế quốc Mĩ và ngụy quyền tay sai, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh đấu tranh trên cả ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao; tăng cường phối hợp chiến đấu với quân và dân hai nước bạn, kiên quyết đánh bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và “Đông Dương hoá chiến tranh”.
Ngày 1-1-196 trong thư chúc mừng năm mới , Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát phương hướng chiến lược cho quân và dân ta trong cuộc kháng chiến là “Đánh cho Mĩ cút, đánh cho ngụy nhào”.
Ngày 20-7-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi “Quân dân cả nước ta, triệu người như một, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, không sợ hi sinh, không sợ gian khổ, quyết kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, quyết chiến, quyết thắng, đánh cho quân Mĩ phải rút sạch, đánh cho ngụy quân, ngụy quyền sụp đổ hết, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hoà bình thống nhất nước nhà”.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, quân và dân ta đẩy mạnh thế chiến lược tiến công, giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trên cả ba mặt trận: Quân sự, chính trị và ngoại giao.
Xem thêm : Cách vẽ quỷ cưa đẹp đơn giản ấn tượng nhất
Ngay từ năm 1969, khi Mĩ – ngụy bắt đầu triển khai chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, quân và dân ta liên tiếp đập tan ba cuộc hành quân “bình định cấp tốc” của 6 tiểu đoàn Mĩ ngụy (trong đó có 1 tiểu đoàn Mĩ hỗ trợ) vào vùng núi Chư Pa (Gia Lai). Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.585 tên địch (có hơn 350 tên Mĩ ), phá huỷ 9 đại bác và súng cối, bắn rơi và bắn cháy 15 máy bay lên thẳng.
Trong khi đó, cuộc đàm phán trên bàn Hội nghị hai bên ở Pari cũng có bước tiến mới. Vào nửa cuối năm 1968, tại Hội trường Clêbe (Pari), giữa hai bên Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hoa Kì đã trải qua nhiều cuộc đấu lí kéo dài về nguồn gốc cuộc chiến tranh Việt Nam, vấn đề Mĩ phải chấm dứt ném bom trên toàn miền Bắc, rút quân khỏi miền Nam Việt Nam… Trong Tuyên bố ngày 2-11-1968, Chính phủ ta nêu rõ chỉ sau khi Mĩ chấm dứt không điều kiện việc ném bom bắn phá trên toàn bộ lãnh thổ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì Chính phủ ta sẽ cùng phía Mĩ bàn về các vấn đề khác có liên quan đến hai bên. Sau đó, ta tuyên bố sẵn sàng họp một hội nghị gồm đại diện của: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Hoa Kì và chính quyền Sài Gòn.
Ngày 13-11-1968, Mĩ tán thành hội nghị hai phe bốn bên.
Ngày 25-1-1969, phiên họp toàn thể lần thứ nhất của Hội nghị bốn bên (l) về Việt Nam chính thức được khai mạc tại Pari.
Trong quá trình Hội nghị, lập trường bốn bên (thực chất là hai bên) rất khác xa (l) Đoàn đại biểu VNDCCH do Bộ trưởng Xuân Thuỷ làm Trưởng đoàn; tham dự Hội nghị còn có cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và các thành viên Mai Văn Bộ, Phan Hiền, Hà Văn Lâu, Nguyễn Thành Lê, Trần Công Tường. Nguyễn Minh Vĩ. Đoàn MTDTGPMNVN do ông Trần Bửu Kiếm làm Trưởng đoàn, bà Nguyễn Thị Bình làm Phó trưởng đoàn và các thành viên. Đoàn Hoa Kì do H. Cabốt Lốt làm Trướng đoàn.
Đoàn ngụy quyền Sài Gòn do Phạm Đăng Lâm làm Trưởng đoàn nhau. Lập trường của ta luôn giữ vững hai vấn đề cơ bản: Mĩ phải công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam; Mĩ phải rút hết quân đội viễn chinh và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam. Lập trường phía Mĩ đòi hai bên cùng rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Cũng do vậy, Hội nghị diễn ra rất gay go, quyết liệt và kéo dài, nhiều khi bị gián đoạn. Buộc phải thừa nhận Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam dự cuộc hội nghị về vấn đề Việt Nam ở Pari, đế quốc Mĩ đã phải chấp nhận sự thất bại bước đầu của chủ trương “thương lượng trên thế mạnh”, buộc phải công nhận sức mạnh phong trào yêu nước của nhân dân miền Nam Việt Nam mà Mặt trận là : người đại diện. Đó là một thắng lợi to lớn, góp phần tạo thế cho quân và dân ta đẩy mạnh tiến công trên mặt trận quân sự.
Từ ngày 22-2 đến ngày 30-3-1969, quân và dân miền Nam mở cuộc tiến công đồng loạt vào hơn 400 mục tiêu của địch ở 36 thành phố, thị xã, hơn 100 quận lị, thị trấn, 35 sở chỉ huy, 38 sân bay, 17 khu hậu cần lớn. Sau 35 ngày đêm chiến đấu, quân và dân ta đã loại 104.000 tên địch, trong đó có 52.000 tên Mĩ và hơn 4.000 lính chư hầu; tiêu diệt và tiêu hao nặng 35 tiểu đoàn và đơn vị hỗn hợp tương đương tiểu đoàn; bắn rơi và phá huỷ 1.600 máy bay các loại; phá huỷ 2.900 xe quân sự (có 1.440 xe tăng và xe bọc thép); bắn chìm và bắn cháy 275 tàu, xuồng chiến đấu; thiêu huỷ và phá nổ 270 kho bom đạn, xăng dầu và phương tiện chiến tranh.
Thắng lợi to lớn và toàn diện của nhân dân miền Nam trong những ngày đầu xuân Kỉ Dậu (1969) đã giáng những đòn mãnh liệt vào chiến lược “quét và giữ” của Abram, vào kế hoạch “bình định cấp tốc” , làm cho ngụy quân, ngụy quyền càng thêm rệu rã và ý chí xâm lược của Mĩ càng bị lung lay.
Trong những tháng tiếp theo, từ tháng 4 đến tháng 8-1969, quân và dân miền Nam liên tiếp giành thắng lợi ở nhiều nơi: Đánh bại cuộc hành quân “Cái nêm Atlát” của hơn 10.000 quân Mĩ – ngụy vào vùng Thủ Dầu Một (17 – 27-3-1969), loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.000 tên, phá huỷ 210 xe tăng, bắn rơi 12 máy bay; tiến công 22 vị trí địch, 4 chi khu quân sự và nhiều đồn bốt tại Vĩnh Long (11 – 14- 4-1969), diệt 1.147 tên, bắn rơi và phá huỷ 100 máy bay; mở chiến dịch Long Khánh (Đông Nam Bộ) (5-5 – 20-6-1969) nhằm phá hoại kế hoạch “bình định cấp tốc” của địch và đánh bại thêm một bước chiến lược “quét và giữ” , loại khỏi vòng chiến đấu 7.165 tên, bắn rơi 79 máy bay, phá huỷ 47 khẩu pháo 105 – 155 mm.
Từ ngày 8 đến 26-5-1969, quân và dân Bắc Kon Tum dồn dập tiến công địch trong khu vực sân bay Đắc Tô, sân bay Kon Tum, thị trấn Tân Cảnh; vây hãm trại lực lượng đặc biệt Plây Cần, chặn đánh 12 tiểu đoàn chủ lực ngụy ở vùng Tân Cảnh, loại khỏi vòng chiến đấu 3.000 tên, bắn rơi và phá huỷ 68 máy bay, 71 xe quân sự…
Từ ngày 6 đến ngày 20-6-1969, lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng Quảng Đà cùng một lúc tiến công địch ở thành phố Đà Nẵng, các thị xã, thị trấn, huyện và nhiều đồn bốt, đánh trúng các sân bay Nước Mặn, Xuân Thiều bến tàu quân sự Đà Nẵng, Sơn Trà, đánh phá các căn cứ chỉ huy của sư đoàn lính thuỷ đánh bộ Mĩ số 1 ở Sủng Mây, sở chỉ huy sư đoàn Amêricơn ở Kỉ Hà; loại khỏi vòng chiến đấu 4.710 tên, phá huỷ 78 máy bay, 87 xe bọc thép, 23 đại bác…
Từ ngày 1-8 đến ngày 15-9-1969, quân và dân miền Nam tổ chức tiến công địch ở gần 40 thành phố, thị xã, gần 60 sở chỉ huy từ cấp trung đoàn trở lên, hơn 30 sân bay quân sự, nhiều bến tàu, khu hậu cần; loại khỏi vòng chiến đấu hơn 65.000 địch (trong đó có 25,000 Mĩ và chư hầu), bắn rơi 795 máy bay, phá huỷ 2.600 xe quân sự (1.450 xe tăng và xe bọc thép), bắn chìm và bắn cháy 178 tàu, xuồng chiến đấu phá huỷ 280 đại bác và súng cối hạng nặng.
Giữa lúc quân và dân hai miền đất nước đang giành nhiều thắng lợi ngày càng to lớn, vào lúc 9 giờ 47 phút ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại vô cùng kính yêu của toàn thể dân tộc Việt Nam, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc, từ trần.
Ngày 3-9-1969, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp Hội nghị toàn thể khẩn cấp (Hội nghị lần thứ 17), ra Lời kêu gọi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, đồng bào cả nước và kiều bào ở nước ngoài “Triệu người như một hãy biến đau thương thành hành động cách mạng, dũng cảm tiến lên, tiếp tục sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện thắng lợi lí tưởng và hoài bão của Người; chấp hành nghiêm chỉnh đường lối chính sách của Trung ương Đảng và Chính phủ; ra sức học tập tư tưởng và tác phong của Người”. Từ ngày 6 đến ngày 9- 9-1969, lễ viếng và truy điệu được cử hành trọng thể tại Quảng trường Ba Đình lịch sử.
Ở miền Nam, mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Hội đồng cố vấn lối cao cũng tổ chức lễ truy điệu hết sức trọng thể. Không những ở vùng giải phóng, mà ngay trong các vùng địch kiểm soát, đồng bào ta cũng tìm cách theo dõi tin về lễ tang và tổ chức lễ truy điệu bằng nhiều hình thức khác nhau.
Biến đau thương thành hành động, quân và dân miền Nam tăng cường phối hợp với lực lượng cách mạng hai nước bạn, tiếp tục tiến công và phản công địch trên các chiến trường, lập nhiều chiến công.
Từ đêm 10-2-1970, cùng với quân giải phóng Lào, bộ đội ta tiến công vào khu vực Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng, nơi địch làm bàn đạp uy hiếp căn cứ cách mạng Sầm Nưa.
Đến ngày 21-2-1970, cuộc tiến công kết thúc thắng lợi: Toàn bộ khu vực Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng được giải phóng, 6.000 tên địch (phần lớn là lực lượng đặc biệt) đã bị loại khỏi vòng chiến đấu; bạn và ta thu, phá huỷ hàng ngàn vũ khí các loại, bắn rơi và phá huỷ 42 máy bay.
Đây là một đòn giáng mạnh vào đế quốc Mĩ và tay sai, đập tan một cố gắng quân sự cao nhất của chúng trên một địa bàn chiến lược quan trọng ở Lào, so sánh lực lượng tiếp tục chuyển biến theo chiều hướng có lợi cho cách mạng Lào.
Sau chiến thắng Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng, lực lượng vũ trang cách mạng Lào – Việt tiếp tục tiến công đuổi địch khỏi vùng Pắc Beng (Uđômxay), Tây Bắc Lào, giải phóng một vùng đất rộng lớn dọc theo sông Mê Công; kết hợp tiến công quân sự với vận động thu phục, quét sạch lực lượng phỉ trong tỉnh Sầm Nưa và một phần tỉnh Luông Phabang… Đêm 28 rạng 29-4, nhằm đánh bại âm mưu của Mĩ định chia cắt, bóp nghẹt cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam và chiến tranh cách mạng Campuchia, bộ đội ta công lực lượng vũ trang cách mạng Lào tiến thẳng vào Atôpơ, một căn cứ của phỉ và biệt kích chuyên đi đánh phá vùng giải phóng và vùng ba biên giới. Ngày 1-5-1970, thị xã Atôpơ và vùng phụ cận, với khoảng 1 vạn dân, được giải phóng. Thừa thắng, quân ta tiếp tục tiến công giải phóng thị xã Xaravan và vùng phụ cận (6-1970).
Trên chiến trường Campuchia, Mĩ – ngụy cũng bị thất bại nặng nề. Từ ngày 30-4 đến 30-6, với lực lượng khoảng 10 vạn quân (5 vạn Mĩ và 5 vạn quân ngụy Sài Gòn), chúng mở 23 cuộc hành quân đánh sang Campuchia, trong phạm vi 6 tỉnh biên giới Việt Nam – Campuchia (Takeo, Campốt, Kômpông Chàm, Xoài Riêng, Prây Veng, Ratanakiri).
Khi Mĩ – ngụy triển khai cuộc hành quân, Bộ Chính trị Trung ương Đảng kịp thời chỉ thị cho Trung ương Cục miền Nam: “Cần tranh thủ thời gian chuẩn bị lực lượng và kế hoạch cùng các đồng chí bạn đánh chiếm và mở rộng vùng giải phóng 7 tỉnh biên giới, từ biên giới ta đến bờ sông Mê Công, đồng thời giúp bạn lập khu du kích ở Tây Nam, Bắc và Tây Bắc. Bộ đội chủ lực ở biên giới không những có nhiệm vụ tiếp tục đánh Mĩ – ngụy trên đất ta mà còn có nhiệm vụ tiến công kiên quyết phối hợp với bạn tác chiến mở rộng mặt trận, mở rộng vùng giải phóng phía sau trên đất Campuchia, đánh bại âm mưu của Mĩ “. Bộ đội tình nguyện Việt Nam cùng với quân và dân Campuchia đã tiêu diệt và làm bị thương 17.000 địch, phá huỷ 1.500 xe quân sự (750 xe tăng và xe bọc thép), bắn rơi 20 máy bay, giải phóng hoàn toàn 5 tỉnh Đông Bắc (Stung Treng, Ratanakin, Krachiê, Munđukiri, Prếch Vihia) và phần lớn vùng nông thôn 10 tỉnh khác. Vùng giải phóng Campuchia đã hình thành trên một khu vực rộng lớn với 61 quận trong tổng số 102 quận và.4.545.000 dân trong tổng số 7.000.000 dân. Âm mưu của Mĩ định chia rẽ cách mạng ba nước Đông Dương, cô lập cách mạng Việt Nam bị thất bại. Cách mạng Campuchia có điều kiện thuận lợi để phát triển nhanh chóng.
Bị thất bại nặng nề, ngày 30-6-1970, đế quốc Mĩ phải tuyên bố rút quân về miền Nam Việt Nam, chấm dứt cuộc hành quân xâm lược Campuchia. Mặc dù vậy, đế quốc Mĩ chưa chịu từ bỏ âm mưu xâm lược Campuchia, vẫn tiếp tục theo đuổi chiến lược “Khơme hoá chiến tranh”. Chúng để lại một bộ phận quân ngụy Sài Gòn làm chỗ dựa cho quân ngụy Phnom Pênh để thực hiện “Khơme hoá chiến tranh”. Cũng do vậy, bộ đội tình nguyện Việt Nam cùng với quân và dân Campuchia tiếp tục tiến công tiêu diệt địch.
Chiến thắng Cánh Đồng Chum và việc giải phóng Atôpơ, Xaravan ở Lào cùng với việc giải phóng Đông Bắc Campuchia trong nửa đầu năm 1970 có ý nghĩa rất to lớn. Nó tạo nên một địa bàn chiến lược liên hoàn rộng lớn, nối liền miền Bắc Việt Nam với Thượng Lào và Trung – Hạ Lào, với miền Tây Trị Thiên, Tây Nguyên, Nam Bộ, Đông Bắc Campuchia, hình thành một thế trận vững chắc chưa từng có cho cách mạng ba nước.
Trên thực tế, Đông Dương trở thành một chiến trường thống nhất. Đó cũng là thất bại nặng nề của đế quốc Mĩ trong âm mưu “dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương”. Do những thất bại nặng nề trên chiến trường ba nước trong năm 1970, đế quốc Mĩ và tay sai ngày càng rơi vào thế sa lầy trong cuộc chiến tranh. Tuy nhiên, với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, đế quốc Mĩ tiếp tục lao vào cuộc phiêu lưu quân sự mới, hi vọng nhờ đó thoát khỏi tình hình bế tắc.
Đầu tháng 2-1971, với lực lượng 45.000 quân, Mĩ – ngụy mở cuộc hành quân chiến lược lớn mang tên “Lam Sơn – 719” đánh lên khu vực biên giới Đường 9 – Nam Lào. Đây là cuộc hành quân điển hình của chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”.
Thông qua cuộc hành quân này, Mĩ – ngụy nhằm mục đích:
– Phá hành lang chiến lược của ta, “bóp nghẹt từ cuống họng” đường chi viện vào Nam.
– Tập dượt quân ngụy Sài Gòn trong việc thực hiện công thức “bộ binh ngụy + hoả lực Mĩ” của chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” bằng cách đưa quân ngụy đối chọi với quân chủ lực của ta tại một chiến trường rừng núi tiếp giáp với miền Bắc Việt Nam.
– Lập một phòng tuyến ngăn chặn cắt đôi Đông Dương, tạo cho chúng một thế mạnh ở miền Nam, uy hiếp miền Bắc, hỗ trợ cho “chiến tranh đặc biệt tăng cường” ở Lào và “Khơ me hoá chiến tranh” ở Campuchia.
Trước âm mưu và hành động của địch, chủ trương của Đảng ta là: tập trung lực lượng, kiên quyết tiêu diệt thật nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mĩ – ngụy, bảo vệ bằng được con đường chi viện cho các tiền tuyến, phối hợp với các chiến trường, với nhân dân các nước Lào và Campuchia, đập tan hành động phiêu lưu quân sự của đế quốc Mĩ, tiến lên giành toàn thắng cho chiến dịch.
Do nắm đúng ý đồ, dự đoán đúng kế hoạch hành quân của địch, nên chúng ta đã chuẩn bị một kế hoạch tác chiến chu đáo.
Xem thêm : Đấu giá/đấu thầu chứng khoán
Nhờ đó, sau hơn 40 ngày đêm chiến đấu (8-2 – 23-3-1971), quân và dân hai nước việt Nam và Lào đập tan cuộc hành quân của địch, tiêu diệt và bắt 23.000 tên, bắn rơi và phá huỷ gần 500 máy bay…
Thắng lợi trên Mặt trận Đường 9 – Nam Lào có ý nghĩa chiến lược to lớn, mở ra khả năng hiện thực đánh bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, làm sa sút nghiêm trọng tinh thần chiến đấu của binh sĩ Mĩ – ngụy. Thắng lợi này cũng bảo vệ được tuyến “Đường mòn Hồ Chí Minh” cùng với toàn bộ hành lang chiến lược của ta.
Cùng với Mặt trận Đường 9 – Nam Lào, trên chiến trường hai nước bạn, Mĩ – ngụy cũng liên tục bị tiến công và phản công. Ở Thượng Lào, ngày 13-2-1971, quân và dân Lào tiến công Long Chẹng – căn cứ biệt kích của CIA và Vàng Pao; ở Hạ Lào, ngày 10-3, lực lượng cách mạng đuổi địch rút chạy khỏi đông nam cao nguyên Bôlôven; sau đó đánh thẳng vào Pắc Soòng, Bản Nhích, giải phóng hoàn toàn cao nguyên Bôlôven ( 15-5 – 11-6-1971).
Trên chiến trường Campuchia, lực lượng cách mạng áp sát Phnôm Pênh, tiến công sân bay Pôchentông, phá huỷ nhiều máy bay địch. Thắng lợi lớn nhất là chiến dịch phản công Đường số 7, đánh bại hoàn toàn cuộc hành quân “Toàn thắng 1-71” của 23.000 quân ngụy Sài Gòn dưới sự yểm trợ của không quân Mĩ vào vùng giải phóng Đông Bắc Campuchia (4-2 – 4-3-1971).
Mở cuộc hành quân này, Mĩ – ngụy nhằm bao vây tiêu diệt một bộ phận quan trọng lực lượng chủ lực của ta; phá huỷ căn cứ cách mạng, kho tàng, giao thông; giải toả Đường số 7, lập tuyến ngăn chặn ở Đông và Đông Bắc Campuchia. Địch coi đây là một mũi phối hợp quan trọng với cuộc hành quân “Lam Sơn – 719” trên mặt trận Đường 9 -Nam Lào. Bị chủ lực của ta cùng với quân và dân Campuchia tiến công liên tiếp, địch phải bỏ dở cuộc hành quân trong tháng 3-1971.
Thất bại nặng nề ở Đường 9 – Nam Lào và Đông Bắc Campuchia, quân ngụy Sài Gòn bộc lộ sự bất lực trong vai trò xung kích trên bán đảo Đông Dương. Tình hình chiến sự cũng làm cho chính quyền Níchxơn nhận thấy cần phải đẩy mạnh xây dựng quân ngụy Phnôm Pênh có khả năng đứng vững và đối phó được với phong trào cách mạng Campuchia, tạo điều kiện để rút bớt quân ngụy Sài Gòn về miền Nam và do đó mới có thể rút thêm quân Mĩ về nước.
Với ý đồ đó từ 20-8-1971, đế quốc Mĩ huy động khoảng 20.000 quân ngụy Phnôm Pênh, có sự yểm trợ của không quân Mĩ và ngụy Sài Gòn, mở cuộc hành quân “Chenla 2”, nhằm lấn chiếm vùng giải phóng, chia cắt chiến trường Campuchia thành nhiều khu vực để tiện “bình định” gom dân, cắt đường hành lang của ta từ đông sang tây. Đây là cuộc hành quân đầu tiên và lớn nhất của quân ngụy Phnôm Pênh trong chiến lược “Khơme hoá chiến tranh” của Mĩ.
Quân chủ lực ta cùng với quân giải phóng Campuchia tiến công mạnh, tiêu diệt nhiều địch. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, ngụy quyền Phnôm Pênh phải ra lệnh tàn quân rút khỏi Đường số 6. Ngày 2-12, cuộc hành quân “Chenla 2” kết thúc bằng cuộc tháo chạy của quân ngụy Phnôm Pênh ra khỏi những mục tiêu chúng vừa chiếm đóng và bị loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 12.000 tên. Âm mưu “Khơme hoá chiến tranh” của Mĩ bị giáng một đòn mạnh. Vùng giải phóng Campuchia được mở rộng với khoảng 80% đất đai và 60% dân số. Những thắng lợi quân sự của nhân dân ba nước Đông Dương đã đẩy Mĩ -ngụy vào thế bị động, bế tắc cả về chiến lược, chiến thuật, chiến dịch, làm rung chuyển hệ thống phòng ngự từ xa của chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”.
Ngược lại, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang và thắng lợi quân sự cổ vũ, ở hầu khắp các vùng nông thôn, đồng bằng, rừng núi, ven đô thị, quần chúng nhân dân nổi dậy chống ác ôn, phá thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ. Nhiều ấp chiến lược bị san bằng, chương trình “bình định” nông thôn bị giáng một đòn nặng nề.
Ở các đô thị, đông đảo công nhân, học sinh, sinh viên, trí thức, Phật tử, các tầng lớp lao động tổ chức bãi công, bãi khoá, mít tinh, biểu tình, hội thảo, đưa đơn kiến nghị đòi các quyền dân sinh, dân chủ, đòi hoà bình, đòi Mĩ rút về nước… Phong trào nổ ra liên tục và rầm rộ nhất là ở Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, những nơi có lực lượng học sinh, sinh viên khá đông đảo và thường là “ngòi nổ” cho phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân.
Từ trong phong trào đấu tranh, họ cất cao tiếng hát “Xu ống đường… “,” Dậy mà đi… “; đi vào các ngõ phố, ra ngoài đồng ruộng, gặp gỡ và nói cho đồng bào nghe những thủ đoạn lừa bịp của Mĩ – ngụy, đồng thời nghe đồng bào kể tội ác của Mĩ – ngụy đối với đồng bào. Nhiều học sinh, sinh viên tự nguyện xếp bút nghiên, lên đường ra mặt trận chiến đấu chống bè lũ cướp nước và bán nước.
Cùng với thắng lợi về quân sự, nhân dân ta còn giành được thắng lợi to lớn trên mặt trận chính trị, ngoại giao.
Đáp ứng yêu cầu cấp bách của cách mạng miền Nam, Đại hội quốc dân gồm đại biểu của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hoà bình Việt Nam cùng đại biểu các lực lượng yêu nước khác ở miền Nam được triệu lập (từ ngày 6 đến ngày 8-6-1969). Đại hội long trọng tuyên bố thành lập chế độ Cộng hoà miền Nam Việt Nam, đề ra những quy định lớn về đường lối đối ngoại và về cơ cấu tổ chức. Đại hội bầu ra Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam do Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch, Bác sĩ Phùng Văn Cung, Giáo sư Nguyễn Văn Kiết, ông Nguyễn Đoá – một nhân sĩ trí thức – làm Phó Chủ tịch; Hội đồng cố vấn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch Luật sư Trịnh Đình Thảo làm Phó Chủ tịch..
Việc thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam là một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của cách mạng miền Nam, biểu hiện ý chí của nhân dân miền Nam, thực hiện quyền làm chủ của mình. Sự ra đời của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đánh dấu một bước hoàn chỉnh hệ thống chính quyền cách mạng của nhân dân miền Nam.
Ngay sau khi ra đời (6-1969), Chính phủ cách mạng đã được 23 nước trên thế giới công nhận, trong đó có 21 nước đặt quan hệ ngoại giao.
Ngày 10-6-1969, Chính phủ cách mạng lâm thời đề ra chương trình hành động, gồm các chính sách lớn về vấn đề đẩy mạnh cuộc chiến đấu chống Mĩ; hoà hợp dân tộc; khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá; bảo đảm các quyền tự do dân chủ, trong đó có chính sách về ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng”. Tính đến đầu năm 1971, chính quyền cách mạng đã cấp 1,6 triệu hécta ruộng đất cho nông dân.
Nếu tính cả số ruộng đất được chia trong kháng chiến chống Pháp bị cướp đi, nay giành lại được, thì tổng số ruộng đất do nông dân làm chủ là 2,1 triệu hécta trong tổng số 3,5 triệu hécta đất canh tác trên toàn miền Nam.
Cùng thời gian trên, vùng giải phóng được mở rộng thêm 3.600 ấp với khoảng 3 triệu dân. Bốn Ban đại diện của Chính phủ cách mạng lâm thời được thành lập ở bốn miền: Trung Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Uỷ ban nhân dân cách mạng được thành lập ở tất cả 44 tỉnh, 6 thành phố, 182 huyện và hơn 1.500 xã. Trong những năm kháng chiến chống Mĩ , khối liên minh chiến đấu giữa ba dân tộc Đông Dương được hình thành và ngày càng bền chặt.
Ngay từ đầu năm 1965, trước hành động leo thang mở rộng chiến tranh xâm lược của đế quốc Mĩ, từ ngày 1 đến ngày 9-3- 1965, tại Phnôm Pênh đã diễn ra cuộc Hội nghị nhân dân ba nước Đông Dương (l). Hội nghị nhấn mạnh “sự cần thiết phải củng cố tình đoàn kết chân thành và bền vững của các dân tộc Đông Dương” trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là đế quốc Mĩ xâm lược.
Đầu năm 1970, đế quốc Mĩ mở rộng chiến tranh xâm lược Campuchia, đẩy mạnh “chiến tranh đặc biệt” ở Lào. Bằng những (l) Hội nghị có sự tham gia của Đoàn đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Cộng đồng xã hội bình dân Campuchia, Neo Lào Hắc Xạt, lực lượng trung lập yêu nước Lào và các đoàn thể, tổ chức thuộc ba nước hành động ấy , đế quốc Mĩ muốn tạo điều kiện thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, đồng thời liên kết ngụy quyền Sài Gòn, Phnôm Pênh, Viên Chăn thành một trục tay sai đắc lực để chia cắt, cô lập bóp nghẹt cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
Tình hình đó đặt ra một yêu cầu cấp bách là phải tăng cường khối đoàn kết chiến đấu ba dân tộc Đông Dương. Đáp ứng yêu cầu ấy, Hội nghị cấp cao nhân dân ba nước Đông Dương gồm những người đứng đầu của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Cộng hoà miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia được triệu tập trong 2 ngày (24 – 25-4-1970). Hội nghị ra bản Tuyên bố chung có tính chất cương lĩnh đấu tranh của nhân dân ba nước Đông Dương, đồng thời cũng là hiến chương về mối quan hệ giữa nhân dân ba nước láng giềng cùng nhau đoàn kết chống kẻ thù chung.
Thắng lợi của Hội nghị cấp cao nhân dân ba nước đánh dấu bước phát triển mới rất quan trọng của mối tình đoàn kết chiến đấu giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương. Đó cũng là một đòn giáng mạnh vào chiến lược “Đông Dương hoá chiến tranh” của đế quốc Mĩ. Trong thời kì đấu tranh chống chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, nhân dân ta cũng luôn luôn nhận được những tình cảm đặc biệt của bạn bè trên thế giới. Cả loài người tiến bộ, trong đó có nhân dân tiến bộ Mĩ đều công phẫn lên án chính quyền Níchxơn, kiên quyết đòi chúng chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút toàn bộ quân Mĩ về nước..
Trong bối cảnh đó, Hội nghị các Đảng Cộng sản và công nhân châu Âu đoàn kết với nhân dân Việt Nam họp tại Pari (27-7-1972). Tham dự Hội nghị có 27 đoàn đại biểu, gồm các đoàn đại biểu các nước xã hội chủ nghĩa Đông âu, các đoàn đại biểu các đảng cộng sản và công nhân các nước Tây Âu và Bắc Âu. Hội nghị đã thông qua một bản tuyên bố quan trọng về vấn đề Việt Nam: “Ngày nay, không có một nhiệm vụ nào cao quý hơn và cấp bách hơn là ủng hộ nhân dân các nước Việt Nam, Lào, Campuchia và tố cáo những tội ác chiến tranh của Mĩ ở Đông Dương”.
Tiếp theo Hội nghị các Đảng Cộng sản và công nhân châu Âu đoàn kết với nhân dân Việt Nam, từ ngày 10-8-1972, Hột nghị Bộ trưởng Ngoại giao 59 nước không liên kết cũng được triệu tập tại Gióocgiơtao (thủ đô Cộng hoà Guyanna). Hội nghị long trọng công nhận địa vị hợp pháp của đại diện Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và đại diện Chính phủ Vương quốc Campuchia trong đại gia đình các nước không liên kết; đồng thời không công nhận đại diện của ngụy quyền Sài Gòn và ngụy quyền Phnôm Pênh.
Những thắng lợi quân sự và chính trị trên đây, nhất là thắng lợi trên chiến trường Campuchia và Đường 9 – Nam Lào đã tạo nên một sự thay đổi cục diện có lợi cho ta.
Tháng 5-1971, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp để đánh giá tình hình, phán đoán âm mưu của địch và xác định thời cơ chiến lược Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ cần kíp của quân và dân ta là: “Kịp thời nắm lấy thời cơ lớn, trên cơ sở phương châm chiến lược đánh lâu dài, đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và ngoại giao, phát triển thế chiến lược tiến công mới trên toàn chiến trường miền Nam và trên cả chiến trường Đông Dương, đánh bại chiến lược “Việt Nam hoá” chiến tranh của Mĩ, đánh bại một bước quan trọng kế hoạch xâm lược của chúng ở Campuchia và Lào, giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc đế quốc Mĩ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua, đồng thời sẵn sàng chuẩn bị, kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến trong trường hợp chiến tranh còn kéo dài”.
Bước vào mùa xuân năm 1972, Mĩ – ngụy biết ta sẽ tiến công lớn nhưng không dự đoán nổi thời điểm, phương hướng chủ yếu, quy mô, cường độ cuộc tiến công.
Chính vào lúc địch sơ hở do phán đoán sai thời gian và chờ đợi kéo dài, trưa ngày 30-3-1972, quân ta mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam nhằm tiêu diệt bộ phận lớn lực lượng địch, mở rộng vùng giải phóng, góp phần làm thay đổi so sánh lực lượng, thay đổi cục diện chiến trường miền Nam.
Trong cuộc tiến cộng chiến lược này, ta chủ trương kết hợp ba đòn chiến dịch có ý nghĩa chiến lược: Tiêu diệt địch trên chiến trường lựa chọn; tiến công và nổi dậy ở vùng nông thôn đông dân để đánh phá bình định; đấu tranh chính trị ở các thành thị; đồng thời kết hợp ba mặt đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao, giành thắng lợi quyết định.
Quân ta đồng loạt nổ súng tiến công trên ba hướng: Đường số 9 – Trị -Thiên, Bắc Tây Nguyên và Đông Nam Bộ; hướng chủ yếu là Đường 9 – Trị -Thiên. Với những đòn tiến công mạnh, quy mô rộng lớn trên khắp các địa bàn chiến lược quan trọng, sau gần 3 tháng chiến đấu quân ta đã phá vỡ ba tuyến phòng thủ vững chắc nhất của địch (Quảng Trị, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ); loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 250.000 địch, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh; giải phóng toàn bộ tỉnh Quảng Trị, phần lớn tỉnh Kon Tum, phía Bắc tỉnh Bình Định, một khu vực rộng lớn và hoàn chỉnh ở miền Đông Nam Bộ thuộc các tỉnh Tây Ninh , Bình Long và Phước Long…
Sau đòn mở đầu bất ngờ, choáng váng của quân ta, được sự yểm trợ tối đa của hoả lực , không quân và hải quân Mĩ, quân ngụy đã phản công mạnh, gây cho ta nhiều thiệt hại. Tập đoàn Níchxơn “Mĩ hoá” trở lại một phần cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam và tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc Việt Nam.
Mặc dù vậy, cuộc tiến công chiến lược Xuân – Hè năm 1972 của quân và dân ta có ý nghĩa to lớn, mở ra bước ngoặt của cuộc kháng chân chống Mĩ cứu nước. Chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” bị giáng một đòn rất mạnh và có nguy cơ phá sản hoàn toàn.
(Lytuong.net – Nguồn tài liệu: Nguyễn Xuân Minh, Lịch sử Việt Nam 1945-2000, NXB Giáo dục)
Nguồn: https://25giay.vn
Danh mục: Tin Tức