Lý thuyết, Mô hình là gì?

0

Lý thuyết và mô hình trong nghiên cứu khoa học.

Lý thuyết là gì?

Lý thuyết (theory) là tập hợp các phạm trù và luận điểm có quan hệ tương hỗ nhằm phán đoán, giải thích một hiện tượng hoặc một hành vi cần quan tâm trong phạm vi một số điều kiện và giả thiết nhất định. Về bản chất, lý thuyết là một tập hợp có hệ thống những luận điểm. Trong khi luận điểm liên kết hai hoặc ba phạm trù thì lý thuyết tương ứng với một hệ thống các phạm trù và luận điểm phức hợp. Chính vì vậy, lý thuyết có thể phức tạp và trừu tượng hơn rất nhiều so với luận điểm và giả thuyết.

Chú ý rằng, một số người không được trang bị kiến thức về nghiên cứu khoa học thường coi lý thuyết như là một sự suy đoán (speculation) hay là cái đối lập với thực tế (fact). Ví dụ, người ta thường nói rằng giáo viên cần phải giảm lý thuyết và tăng thực hành hay thực tế trong các bài giảng của họ trên lớp. Tuy nhiên, thực tế (fact) hay thực tiễn (practice) không đối lập với lý thuyết. Trong tư duy khoa học, chúng là những thành phần cơ bản, cần thiết để kiểm tra giá trị của một lý thuyết. Một lý thuyết khoa học tốt được hỗ trợ mạnh mẽ bởi các bằng chứng thực tế được quan sát; và một lý thuyết khoa học tốt cũng cần có giá trị thực tiễn cao. Và như vậy, một lý thuyết yếu thường thiếu vắng những yếu tố này. Nhà nghiên cứu về tổ chức nổi tiếng Kurt Lewin (1945) đã nói rằng “Lý thuyết mà không có thực tiễn là lý thuyết vô ích; thực tiễn không có lý thuyết là thực tiễn mù quáng”. Vì vậy, lý thuyết và thực tế (hay thực tiễn) là nền tảng cho nghiên cứu khoa học.

Các lý thuyết cung cấp giải thích về các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Các giải thích này có thể thuyết phục hoặc không thuyết phục, vì vậy,  có những lý thuyết tốt và kém.

Tuy nhiên, có một điều quan trọng đối với các nhà nghiên cứu đó là lý thuyết không phải là “chân lý” (truth), không có lý thuyết nào là thần thánh, bất khả xâm phạm và các lý thuyết không nên được chấp nhận chỉ vì chúng được đề xuất bởi một ai đó. Trong tiến trình khoa học, các lý thuyết lỗi thời cuối cùng sẽ bị thay thể bởi các lý thuyết tân tiến với khả năng giải thích thuyết phục hơn. Thách thức cơ bản đối với các nhà nghiên cứu là làm sao để xây dựng được những lý thuyết tốt hơn, hoàn thiện hơn và chúng có thể giải thích các hiện tượng đang quan tâm tốt hơn các lý thuyết trước đó.

Một thuật ngữ thường được sử dụng liền với lý thuyết là mô hình.

Mô hình là gì?

Mô hình (model) là sự hiện diện tất cả hoặc một phần của một hệ thống được xây dựng để nghiên cứu chính hệ thống đó (ví dụ nghiên cứu cách thức hoạt động hay các tâm điểm của hệ thống đó). Trong khi lý thuyết cố gắng giải thích một hiện tượng, thì mô hình lại cố gắng đại diện (mô tả) cho một hiện tượng. Dựa trên nguồn đầu vào, người nghiên cứu hình thành nên các mô hình để thực hiện những nhiệm vụ quan trọng trong nghiên cứu. Ví dụ, những nhà quản lý thị trường trong doanh nghiệp có thể sử dụng các mô hình để quyết định lượng tiền sẽ sử dụng vào việc quảng cáo cho những dòng sản phẩm khác nhau dựa trên các thông số về chi tiêu cho quảng cáo năm trước, doanh số, sự phát triển của thị trường và các sản phẩm đang cạnh tranh với họ. Tương tự như vậy, các nhà dự báo thời tiết có thể sử dụng các mô hình để dự báo các loại thời tiết trong tương lai dựa trên các thông số như tốc độ và hướng gió, nhiệt độ, độ ẩm. Trong khi các mô hình này đang được sử dụng, không chỉ là giải thích chi phí quảng cáo hay dự báo thời tiết; mô hình có nhiều loại, như mô hình toán học, mô hình mạng lưới, mô hình đường dẫn.

Mô hình có thể đảm nhận chức năng mô tả, dự báo hoặc quy chuẩn. Mô hình mô tả thường dùng đại diện các hệ thống phức tạp nhằm biểu thị các biến số và quan hệ trong hệ thống đó. Mô hình chi phí quảng cáo có thể coi là mô hình mô tả. Mô hình dự báo (ví dụ mô hình hồi quy) cho phép dự báo các sự kiện trong tương lai. Mô hình dự báo thời tiết thuộc mô hình dự báo. Mô hình quy chuẩn được dùng để hướng dẫn hoạt động của chúng ta theo các chuẩn mực phổ dụng trong thực tiễn. Mô hình có thể là tĩnh nếu biểu thị trạng thái của hệ thống ở một thời điểm hoặc là mô hình động nếu biểu thị sự phát triển của hệ thống suốt thời gian dài.

Tiến trình phát triển

Tiến trình phát triển của mô hình và lý thuyết có thể bao gồm suy luận quy nạp và diễn dịch. Suy luận diễn dịch (deduction) là một quá trình tìm ra kết luận về một hiện tượng hoặc hành vi dựa trên nền tảng lý thuyết hoặc suy luận logic từ một tập hợp các tiên đề. Ví dụ, nếu một ngân hàng thực thi chính sách chặt chẽ về đạo đức của nhân viên (tiên đề 1), Jamie là một nhân viên ở ngân hàng đó (tiên đề 2) thì Jamie phải tuân theo những nguyên tắc đạo đức đó (kết luận). Trong suy luận diễn dịch, các kết luận chắc chắn sẽ chính xác nếu như các tiên đề và các suy luận đều chính xác.

Ngược lại, suy luận quy nạp (induction) là quá trình đưa ra kết luận dựa trên các sự kiện thực tế và chứng cứ đã quan sát, thu thập được. Ví dụ, nếu một công ty chi tiêu rất nhiều tiền cho các đợt khuyến mại (Quan sát 1), nhưng doanh số lại không tăng (Quan sát 2), vậy thì có khả năng các đợt khuyến mại không được tổ chức tốt (Kết luận). Tuy nhiên, có thể có các giải thích khác cho sự giảm doanh số, ví dụ do suy thoái kinh tế, sự xuất hiện của các sản phẩm cạnh tranh hoặc chuỗi nguồn cung có vấn đề. Vậy thì, những kết luận quy nạp chỉ là một giả thuyết và có thể bị bác bỏ. Các kết luận diễn dịch nhìn chung có giá trị vững chắc hơn các kết luận quy nạp, nhưng kết luận diễn dịch dựa trên một tiên đề sai thì cũng sai.

Hình 2.3. Quá trình xây dựng mô hình

Hình 2.3. Quá trình xây dựng mô hình

Như trong Hình 2.3, suy luận quy nạp và diễn dịch có mối quan hệ mật thiết với việc xây dựng lý thuyết và mô hình. Sự quy nạp xuất hiện khi chúng ta quan sát một thực tế và hỏi “Tại sao điều này xảy ra?”. Để trả lời, chúng ta phát triển một hoặc vài giải thích thăm dò (các giả thuyết). Sau đó chúng ta sử dụng các phương pháp diễn dịch, dựa trên các tiền đề hợp lý và có cơ sở là những hiểu biết về hiện tượng đang nghiên cứu để thu nhỏ các giải thích thăm dò thành một giải thích đáng tin nhất. Để tìm kiếm một sự mở rộng, phát triển hay thay đổi so với lý thuyết hoặc mô hình hiện có, nhà nghiên cứu phải có khả năng tương tác những suy luận quy nạp và diễn dịch. Đây chính là bản chất của nghiên cứu khoa học.

Rate this post

Leave A Reply

Your email address will not be published.