Chính sách tiền tệ là gì? Các mục tiêu, công cụ của CSTT

0

1. Khái niệm chính sách tiền tệ

Theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận của chính sách Kinh tế – Tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân.

Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận cấu thành trong hệ thống các Chính sách Kinh tế – Tài chính tổng hợp và trong hệ thống đó, các bộ phận cấu thành có mối quan hệ tác động hữu cơ với nhau. Do vậy, một chính sách tiền tệ hữu hiệu đòi hỏi phải được thiết lập và vận hành trong mối quan hệ hữu cơ với các chính sách khác đứng trên góc độ toàn cục, chứ không tồn tại với tư cách là một yếu tố độc lập.

Chính sách tiền tệ có một vai trò quan trọng và tương đối độc lập với các chính sách kinh tế khác xuất phát từ ba luận điểm mang tính định hướng sau:

Thứ nhất: Sẽ không có tăng trưởng kinh tế nếu không có đầu tư.

Thứ hai: Không thể có đầu tư mà không có tiết kiệm.

Thứ ba: Không thể có tiết kiệm nếu thiếu sự ổn định giá cả hàng hóa và sức mua của tiền tệ. Chính vì vậy chính sách tiền tệ có nhiệm vụ tác động vào nhiều hướng nhằm: tạo ra đầu tư, tạo ra tiết kiệm và tạo ra sự ổn định tiền tệ, ổn định giá cả, ổn định tỷ giá hối đoái.

Như vậy, chính sách tiền tệ góp phần quan trọng vào sự thành công hay thất bại của sự phát triển nền kinh tế. Một chính sách tiền tệ thắt chặt (Tight – Monetary Policy) sẽ dẫn đến sự khan hiếm về tiền tệ và đắt đỏ về chi phí. Ngược lại, một chính sách tiền tệ nới lỏng (easy – Monetary policy) sẽ làm cho tiền tệ gia tăng, kích thích tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế.

Chính sách tiền tệ là gì?

Chính sách tiền tệ là gì?

2. Hệ thống mục tiêu chính sách tiền tệ

2.1. Mục tiêu cuối cùng

Các quốc gia đều có chính sách tiền tệ riêng phù hợp với nền kinh tế đặc thù của mỗi nước. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ đều hướng vào những mục tiêu chủ yếu sau:

– Ổn định tiền tệ, bảo vệ giá trị đối nội của đồng tiền trên cơ sở kiểm soát được lạm phát.

– Ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiến trên cơ sở cân bằng cán cân thanh toán quốc tế và ổn định tỷ giá hối đoái.

– Tăng trưởng kinh tế trong sự ổn định.

– Tạo công ăn việc làm và giảm bớt thất nghiệp.

2.1.1. Kiểm soát lạm phát nhằm ổn định sức mua đối nội của tiền tệ

Khi toàn thế giới sử dụng tiền giấy bất khả hoán thì chứa đựng bên trong nó khả năng tiềm tàng của lạm phát. Vì lẽ đó mà người ta cho rằng lạm phát là căn bệnh kinh niên trong nền sản xuất hàng hóa, đặc biệt là nền sản xuất hàng hóa phát triển ở mức độ cao.

Nếu lạm phát ở tỷ lệ cao sẽ phân phối lại thu nhập quốc dân và của cải giữa các giai cấp khác nhau. Khi giá cả tăng lên một cách bất thường thì người thiệt hại là những người đang nắm các tài sản danh nghĩa. Các điều khoản của hợp đồng danh nghĩa ban đầu trong việc mua hoặc bán, cho vay hoặc đi vay, đều có thể tính được tới yếu tố lạm phát thông thường nhưng không thể tính tới yếu tố lạm phát bất thường. Khi đó mọi người, nhất là các chủ đầu tư không an tâm, tin tưởng trong việc tính toán công việc đầu tư nên không khuyến khích đầu tư.

Nếu lạm phát cần bằng có dự tính trước thì sẽ không ảnh hưởng gì đến sản lượng thực tế, đến hiệu quả hoặc phân phối thu nhập quốc dân. Giả sử một nền kinh tế trong đó lạm phát hàng năm là một tỷ lệ cụ thể nào đó thì mọi người đều biết được, thấy trước được sự vận động của lạm phát và có thể tính tới điều đó khi thực hiện các hành vi của mình cho có lợi nhất.

Lạm phát tồn tại rất lâu dài trong nền kinh tế hàng hóa. Bên cạnh tác hại của nó mà người ta dễ dàng nhận thấy, thì lạm phát trong chừng mực nào đó lại là một yếu tố để kích thích kinh tế tăng trưởng.

Các nhà kinh tế học còn gọi đó là liều thuốc bổ tăng trưởng kinh tế. Bởi lẽ, lạm phát chính là việc đưa một khối lượng tiền ra lưu thông. Trong nền kinh tế thị trường, việc đưa tiền ra lưu thông thường thông qua con đường tín dụng. Khi tăng trưởng tiền tệ cho nền kinh tế bằng con đường tín dụng thì sẽ phát triển các doanh nghiệp, tạo điều kiện đầu tư chiều rộng và chiếu sáu. Do đó sẽ thu hút nhiều lao động, thất nghiệp giảm, kinh tế tăng trưởng cao hơn trước.

Như vậy, nhiệm vụ của ngân hàng trung ương là kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ, tạo tiền đề cho nền kinh tế phát triển bình thường, đảm bảo đời sống cho người lao động.

Thực chất của việc kiểm soát lạm phát là chấp nhận sự biến động với biên độ cho phép, nghĩa là duy trì lạm phát ở mức vừa phải.

2.1.2. Ổn định sức mua đối ngoại của tiền tệ

Trong nền kinh tế mở, xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế – tài chính thế giới diễn ra rất nhanh chóng và sâu sắc. Trước tình hình đó, các nước trên thế giới đều hướng về các thị trường tài chính quốc tế để theo dõi sự biến động của các ngoại tệ mạnh, nhằm tránh các tác dụng tiêu cực của các biến động trên thị trường tài chính, thông qua hệ thống tỷ giá hối đoái. Một sự biến động của tỷ giá hối đoái ít hay nhiều, đều ảnh hưởng tới hoạt động kinh tế trong nước tùy theo mức độ hướng ngoại của nền kinh tế.

Tỷ giá hối đoái chịu sự tác động mạnh của dự trữ ngoại hối, thị trường hối đoái và chính sách hối đoái, tình hình giá cả trong nước. Do đó, một chính sách tiền tệ nhằm ổn định kinh tế trong nước, cần phải đi đôi với những biện pháp nhằm ổn định tỷ giá hối đoái. Do tính chất tổng hợp, tỷ giá hối đoái ảnh hưởng sâu sắc đến các hoạt động kinh tế của một nước, đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu.

Chính vì vậy mà hiện nay hầu hết các quốc gia đầu thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi có sự can thiệp của Nhà nước. Cùng với chính sách lãi suất, chính sách tỷ giá hối đoái thủ nổi được coi là chính sách quan trọng của nền kinh tế, là tín hiệu hết sức nhạy cảm.

Một tỷ giá hối đoái quá thấp (bản tệ tăng giá trị so với ngoại tệ) có tác dụng khuyến khích nhập khẩu, gây bất lợi cho xuất khẩu và hàng hóa xuất khẩu tương đối đắt, khó bán cho nước ngoài. Như vậy sẽ gây trở ngại trong nước hướng về xuất khẩu bất lợi cho những cuộc chuyển dịch ngoại tệ từ nước ngoài vào trong nước, làm cho khối lượng dự trữ ngoại hối dễ bị giảm.

Ngược lại một tỷ giá hối đoái quá cao (bản tệ xuống giá trị thấp so với ngoại tệ) sẽ bất lợi cho nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu vì làm cho hàng hóa nhập khẩu đắt hơn, hàng hóa xuất khẩu rẻ hơn để cạnh tranh trên thị trường quốc tế, dễ tìm được thị trường hơn. Do đó những hàng hóa sản xuất có nguyên liệu nhập khẩu hay thay thế hàng nhập khẩu gặp trở ngại. Trong khi đó ngành sản xuất hàng hóa cho thị trường nước ngoài thuận lợi, lưu lượng ngoại tệ có khuynh hướng chuyển vào trong nước khá hơn, khối lượng dự trữ ngoại tệ có cơ hội gia tăng.

Như phân tích trên, một tỷ giá hối đoái biến động thất thường đều không có lợi. Do đó nhiệm vụ của ngân hàng trung ương là sử dụng những công cụ của chính sách tiền tệ để can thiệp giữ cho tỷ giá hối đoái không tăng cũng không giảm quá đáng, làm dịu bớt những tình trạng bất ổn định của nền kinh tế trong nước.

Tùy mỗi quốc gia, ngân hàng trung ương có thể sử dụng biện pháp kinh tế bằng cách tham gia mua bán ở thị trường nội địa để duy trì một tỷ giá hối đoái biến động trong một biên độ không quá lớn hoặc biện pháp hành chính, tức là ấn định một tỷ giá cố định bằng quyền lực hành chính của Nhà nước.

2.1.3. Tăng trưởng kinh tế

Chính sách tiền tệ của các quốc gia hướng đến mục đích cao nhất là làm thế nào để phát triển kinh tế, gia tăng sản lượng, tuy nhiên, trước khi đề cập đến vấn đề tăng trưởng, mỗi quốc gia đều phải quan tâm ba vấn đề cơ bản sau:

Thứ nhất: Tăng trưởng chính là sự tăng sản lượng tính trên đầu người, chứ không phải sự gia tăng tổng sản lượng. Các nước tìm kiếm sức mạnh kinh tế và quân sự trong nền kinh tế thế giới có thể quan tâm đến tổng sản lượng. Nhưng ở hầu hết các nước, mục tiêu đều là tăng sản lượng theo đầu người và tăng mức sống cá nhân.

Thứ hai: Sự cải tiến năng suất lao động một lần duy nhất chỉ tạo ra sự tăng trưởng kinh tế tạm thời. Tăng trưởng ổn định đòi hỏi năng suất lao động phải ổn định lâu dài.

Thứ ba: Mặc dấu sự tăng trưởng mang lại lợi ích là sẽ có mức sản lượng và tiêu dùng cao hơn trong tương lai. Tuy nhiên, nó có thể sinh ra một chi phí ngắn hạn. Ví dụ nếu nền kinh tế ở mức sản lượng tiềm năng, việc giảm bớt tiêu dùng hiện thời sẽ là cần thiết để dùng một phần lớn hơn các nguồn lực hiện có vào việc sản xuất những tư liệu sản xuất mới, nhằm tạo ra mức sản lượng và tiêu dùng cao hơn trong tương lai.

Để tăng trưởng kinh tế, ngân hàng trung ương thực hiện chính sách tiền tệ nới rộng. Tác động đó thông qua hai chiều. Khi khối tiền tệ tăng, nói chung nó có tác dụng làm giảm lãi suất. Khi lãi suất giảm sẽ khuyến khích các chủ doanh nghiệp đầu tư, mở rộng sản xuất. Đầu tư gia tăng dẫn đến tổng sản phẩm xã hội cũng tăng.

Mặt khác sự gia tăng khối tiền đưa đến tác dụng làm tăng số cầu tổng hợp. Các thành phần dân cư có tiền nhiều hơn sẽ tăng sức cầu tiêu thụ và hoạt động thương mại trên thị trường tăng giúp giải quyết hàng tồn đọng, làm cho các doanh nghiệp gia tăng sản xuất, hàng hóa lưu thông, phân phối với nhịp điệu nhộn nhịp hơn. Kết quả là đến một lúc nào đó doanh nghiệp phải tăng thêm trang thiết bị, nhà xưởng, đầu tư vào máy móc, kỹ thuật công nghệ, làm cho cả sức cầu về sản phẩm tiêu dùng và sức cầu về đầu tư đều tăng.

Việc gia tăng khối tiền tệ cho nền kinh tế trong thời kỳ đầu ở hầu hết các quốc gia, ngân hàng trung ương thường sử dụng công cụ hạn mức tín dụng. Khi nền kinh tế thị trường vận động một cách thuần thục thì việc cung ứng tiền tệ chủ yếu được thực hiện thông qua các công cụ gián tiếp, như: dự trữ bất buộc; tái chiết khấu; lãi suất và công cụ thị trường mở. Bốn công cụ đó cùng tác động vào mức cung tiền tệ.

2.1.4. Tăng mức nhân dụng

Trong nền kinh tế thị trường giữa tăng trưởng kinh tế hoặc suy thoái được diễn ra theo chu kỳ, việc toàn dụng nhân công và thất nghiệp luôn đan xen nhau.

Sự tăng trưởng kinh tế bất cứ nước nào cũng không thể kéo dài mãi với thời gian, lý do cơ bản là số cầu dù tiếp tục gia tăng nhưng số cung không thể đáp ứng mãi được. Nó bị hạn chế bởi nhiều yếu tố đáng kể, trước tiên là nhân công khi nền kinh tế tăng trưởng liên tục, đến một lúc nào đó nhân công khan hiếm, hạn chế mức gia tăng sản xuất. Đó là chưa kể nguyên liệu cũng khan hiếm, sự khan hiếm của yếu tố nhân công, nguyên liệu làm tăng chi phí sản xuất, nâng cao giá thành và giá bán trên thị trường.

Vào thời điểm này, nếu khối lượng tiền tệ tiếp tục gia tăng mà không kiềm chế, số cầu tăng mạnh, hậu quả tất yếu dẫn đến lạm phát. Với tình hình đó, ngân hàng trung ương buộc phải giảm bớt khối tiền tệ, từ đó làm giảm cầu. Hoạt động kinh tế rơi vào tình trạng ngưng trệ.

Do đó, các đơn vị sản xuất hàng hóa bán chậm lại, hàng tồn kho tích lũy ngày càng nhiều, tất sẽ có phản ứng là giảm bớt sản xuất hàng hóa, sa thải bớt công nhân. Nhân công thất nghiệp, giảm thu nhập, giảm chi tiêu kéo theo giảm sản lượng sản xuất. Kết quả nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái và thất nghiệp gia tăng.

Để chặn đứng tình trạng suy thoái của nền kinh tế, ngân hàng trung ương sẽ phải thi hành chính sách bành trướng khối tiền tệ, khuyến khích các nhà sản xuất tăng cường đầu tư, gia tăng sản xuất với chính sách lãi suất thấp cùng với giá nhân công rẻ sau thời gian thất nghiệp. Từ đó nhu cầu tái sản xuất theo một nhịp độ lớn dần khiến cho nhu cầu đầu tư tăng lên và cũng từ đó nền kinh tế lại tăng trưởng, giảm bớt thất nghiệp. Giải quyết vấn đề công ăn việc làm hiện nay là một yêu cầu bức thiết của mọi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia chưa phát triển.

Tuy nhiên, lao động là một hàng hóa trên thị trường nên thất nghiệp luôn tồn tại một cách khách quan. Bởi lẽ khi sức lao động trở thành hàng hóa thì cầu về sức lao động luôn có xu hướng thấp hơn khả năng cung do những biến đổi chu kỳ về cơ cấu sản xuất, sự đổi mới công nghệ kỹ thuật.. Bởi vậy, ngay cả khi sản xuất phát triển, kinh tế tăng trưởng vẫn luôn có một bộ phận lao động thất nghiệp. Thất nghiệp sẽ càng tăng khi sản xuất bị đình trệ và chỉ giảm khi sản xuất phục hồi, kinh tế tăng trưởng. Do đó, nhiệm vụ của chính sách tiền tệ là hạn chế tối đa mức thất nghiệp chứ không có nghĩa là triệt tiêu nạn thất nghiệp được.

Giữa các mục tiêu tăng trưởng, lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ qua lại lẫn nhau. Khi kiềm chế được lạm phát thì tăng trưởng chậm lại dẫn đến suy thoái, thất nghiệp cao và khi mở rộng đầu tư, khắc phục suy thoái thì công ăn việc làm được tốt hơn nhưng rất khó kiểm chế lạm phát.

Thông thường mối quan hệ giữa lạm phát, thất nghiệp và tăng trưởng diễn ra như sau:

– Lạm phát ở mức cao sẽ làm cho nền kinh tế phát triển quá “nóng”, khó tránh khỏi lâm vào tình trạng khủng hoảng ngay sau đó. Một khi khủng hoảng xảy ra thì nhịp độ tăng trưởng chậm lại, ắt phải dẫn đến thất nghiệp tăng.

– Khi giảm được lạm phát và giữ lạm phát ở mức độ vừa phải thì nền kinh tế ổn định và có tăng trưởng. Lúc đó các nhà đầu tư an tâm hơn, tin tưởng hơn vào chính sách tiền tệ của đất nước. Nền kinh tế hoạt động có hiệu quả và tạo được nhiều công ăn việc làm.

– Khi lạm phát giảm thì khó nhận biết tác hại của nó. Vì lạm phát thấp thì giá cả hàng hóa thường tương đối ổn định, nhưng sản xuất và lưu thông sẽ bị đình trệ, đầu tư giảm sút. Kết quả nền kinh tế lâm vào tình trạng thất nghiệp tăng, tăng trưởng kém.

Chính vì vậy, sự can thiệp của Nhà nước để chủ động điều chỉnh mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp ngày càng trở nên hết sức quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Để làm được điều đó, Nhà nước phải sử dụng các công cụ để điều hành chính sách tiền tệ.

2.2. Mục tiêu trung gian

Khi sử dụng các công cụ để điều hành chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương không thể tác động trực tiếp và ngay lập tức đến các mục tiêu cuối cùng của nền kinh tế như: giá cả, tăng trưởng kinh tế, công ăn việc làm.

Ảnh hưởng của chính sách tiền tệ chỉ xuất hiện sau một khoảng thời gian nhất định từ một đến hai năm. Bởi vậy nếu ngân hàng trung ương đợi các dấu hiệu về giá cả, tỷ giá, thất nghiệp để điều chỉnh các công cụ chính sách tiền tệ thì sẽ chậm trễ và kém hiệu quả. Để khắc phục hạn chế này, ngân hàng trung ương của tất cả các nước thường xác định các chỉ tiêu cần đạt được ước khi đạt được mục tiêu cuối cùng. Các chỉ tiêu này trở thành mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động.

Mục tiêu trung gian bao gồm các chỉ tiêu được ngân hàng trung ương lựa chọn để đạt được mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ.

Các chỉ tiêu thường được sử dụng làm mục tiêu trung gian là tổng khối lượng tiền cung ứng M1, M2 hoặc M3 và mức lãi suất thị trường kể cả lãi suất ngắn hạn, lãi suất trung hạn và lãi suất dài hạn.

Tiêu chuẩn của các chỉ tiêu trung gian:

Có thể đo lường được: các mục tiêu trung gian phải là các chỉ tiêu có thể đo lường được một cách chính xác và nhanh chóng, bởi vì các chỉ tiêu này chỉ có ích khi nó phản ánh được tình trạng của chính sách tiền tệ nhanh hơn mục tiêu cuối cùng.

Có thể kiểm soát được: khi ngân hàng trung ương có khả năng kiểm soát mục tiêu trung gian, thì mới có thể điều chỉnh được mục tiêu đó cho phù hợp với định hướng của chính sách tiền tệ. Chẳng hạn, sự trông đợi của các nhà kinh doanh sẽ quyết định đến tổng đầu tư và GDP, nhưng nếu chọn chỉ tiêu này làm mục tiêu trung gian, thì ảnh hưởng của ngân hàng trung ương đến mục tiêu này là không cao.

Có mối liên hệ chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng: đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất của một mục tiêu trung gian. Khả năng có thể đo lường chính xác hoặc khả năng kiểm soát của ngân hàng trung ương sẽ không có ý nghĩa gì nếu các chỉ tiêu được lựa chọn không ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng hoặc giá cả.

Trong thực tế, khối lượng tiền cung ứng có quan hệ chặt chẽ với lãi suất và có mối liên quan chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế.

Như vậy cả tổng lượng tiền cung ứng và lãi suất đều thỏa mãn các tiêu chí trên, nhưng ngân hàng trung ương không thể chọn cả hai chỉ tiêu làm mục tiêu trung gian mà chỉ có thể chọn một trong hai mục tiêu đó, căn cứ vào mối liên hệ của các chỉ tiêu này đến các mục tiêu cuối cùng. Bởi lẽ nếu đạt được mục tiêu cuối cùng là tăng trưởng kinh tế thì phải gia tăng tổng khối lượng tiền cung ứng, mà tăng tổng lượng tiền cung ứng thì phải chấp nhận sự biến động lãi suất và ngược lại.

2.2.1. Chỉ tiêu tổng lượng tiền cung ứng

Giả sử ngân hàng trung ương chọn tổng lượng tiền cung ứng làm mục tiêu trung gian với tỷ lệ tăng dự định là x% để đạt tới mức tiền cung ứng tại M* xác định và lãi suất cung ứng là i* như mô hình 1:

Hình 1

Để duy trì mục tiêu lượng tiền cung ứng, ngân hàng trung ương buộc phải chấp nhận sự thay đổi lãi suất vì sự biến động tất yếu của nhu cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Trong thực tế mức cầu tiền tệ, dưới tác động của những nhân tố ảnh hưởng, không cố định tại MD” mà có thể dao động từ MD’ đến MD” và làm cho lãi suất biến động từ 1 đến i”.

2.2.2. Chỉ tiêu lãi suất

Hình 2

Chẳng hạn như ngân hàng trung ương chọn và duy trì mức lãi suất mục tiêu là i* = y%, mức cầu tiền tệ tương ứng sẽ là MD* tại mức cung tiền tệ M* (Hình 2).

Vì mức cầu tiền tệ dao động từ MD đến MD”, để đạt được mục tiêu lãi suất i*, ngân hàng trung ương buộc phải thay đổi mức cung ứng tiền từ M’ đến M” nhằm ngăn cản sự tăng lên hay giảm xuống của lãi suất so với i*. Như vậy để duy trì mục tiêu lãi suất, mức cung ứng tiền và tiền cơ sở sẽ biến động.

Lựa chọn mục tiêu trung gian

Việc lựa chọn lãi suất hay lượng tiền cung ứng làm mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ tùy thuộc vào mức độ biến động tương đối của nhu cầu tiền tệ so với nhu cầu hàng hóa được phản ánh thông qua sự biến động tương đối của đường IS so với LM trong mô hình IS – LM. Mức tác động của lãi suất và lượng tiền cung ứng đến mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ khác nhau trong hai trường hợp: 1. Đường IS biến động mạnh hơn đường LM và 2. Đường LM biến động mạnh hơn đường IS.

• Trường hợp 1:

Trong khi nhu cầu về hàng hóa biến động bất thường, đường IS dao động mạnh từ IS’ đến IS” quanh giá trị kỳ vọng IS thì các nhu cầu tiền tệ tương đối ổn định và đường LM được coi như cố định tại LM*. Mức sản lượng kỳ vọng của nền kinh tế trong trường hợp này là Y* và tương ứng với mức lãi suất i* (Hình 3).

Trong trường hợp này nếu mức lãi suất i* được lựa chọn làm mục tiêu trung gian, ngân hàng trung ương phải thường xuyên thay đổi khối tiền cung ứng mỗi khi mức lãi suất thị trường biến động lớn hơn hoặc nhỏ hơn mức lãi suất i* bởi sự dao động của đường IS. Khi những biến động của nhu cầu hàng hóa làm cho đường IS biến động từ IS đến IS” đẩy mức lãi suất thị trường lệch khỏi mức mục tiêu. Việc mở rộng hoặc thu hẹp khối tiền cung ứng nhằm duy trì lãi suất ở mức i sẽ làm cho đường LM dịch sang phải hoặc trái, kết quả là mức sản lượng biến động từ Y đến Y”.

Nếu lượng tiền cung ứng được lựa chọn làm mục tiêu, ngân hàng trung ương sẽ xác định một mức tiền cung ứng làm mục tiêu và cố định đường LM tại LM* để đạt mức sản lượng mục tiêu tại Y*. Vì lượng tiền cung ứng không thay đổi nên mức sản lượng sẽ biến động từ YM đến YM.

Vì mục đích của việc lựa chọn mục tiêu trung gian là nhằm thực hiện được mục tiêu cuối cùng một cách chắc chắn nên trong trường hợp đường IS không ổn định bằng đường LM thì tổng lượng tiền cung ứng thích hợp với vai trò này hơn.

• Trường hợp 2

Nhu cầu tiền tệ biến động mạnh hơn những biến động của các thành phần cấu thành tổng cầu làm cho đường LM biến động từ LM’ đến LM” trong khi đường IS gần như cố định tại IS*. Mục tiêu lãi suất i* hoặc mục tiêu tổng lượng tiền cung ứng được xác định nhằm đạt được mức sản lượng kỳ vọng Y*. Vì đường LM không ổn định nên khi MS được cố định tại mức mục tiêu, tổng sản lượng quốc dân sẽ dao động từ Y’M đến Y”M.

Trong trường hợp này nếu mức lãi suất i được lựa chọn làm mục tiêu, mọi biến động của mức cầu tiền tệ sẽ dẫn đến những biến động tương ứng của mức cung tiền tệ nhằm duy trì mức lãi suất cố định tại i” và do đó đường LM luôn cố định tại vị trí của nó, mức sản lượng vì thế cố định tại Y (Hình 4).

Hình 4

Như vậy khi nhu cầu tiền tệ không ổn định so với những biến động của nhu cầu hàng hóa thì việc lựa chọn lãi suất làm mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ thích hợp hơn.

Hiện nay Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chọn khối tiền M2 làm chỉ tiêu trung gian trong điều hành chính sách tiền tệ bởi thực tế đã chỉ ra rằng sự biến động của khối tiền M2 hoàn toàn phù hợp với sự biến động của mức giá và sản lượng trong thập kỷ 90. Tuy nhiên, chính sách lãi suất ấn định phần nào làm giảm hiệu quả của mục tiêu trung gian này.

Ngoài hai mục tiêu trên, còn có một số các chỉ tiêu khác là ứng cử viên của vai trò mục tiêu trung gian như tổng khối lượng tín dụng. tỷ giá. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của các chỉ tiêu này là mối quan hệ của chúng với các mục tiêu cuối cùng rất phức tạp và không rõ ràng. Vì thế ít khi nó được sử dụng làm một mục tiêu độc lập, mà thường có thể được sử dụng cùng với các mục tiêu khác như tổng lượng tiền cung ứng hoặc lãi suất.

2.3. Mục tiêu hoạt động

Là các chỉ tiêu có phản ứng tức thời với sự điều chỉnh của công cụ chính sách tiền tệ. Các tiêu chuẩn lựa chọn chỉ tiêu làm mục tiêu hoạt động cũng tương tự như tiêu chuẩn lựa chọn mục tiêu trung gian:

– Chỉ tiêu đó phải đo lường được nhằm tránh những suy đoán thiếu chính xác, việc này sẽ làm sai lệch dấu hiệu của chính sách tiền tệ.

– Phải có mối quan hệ trực tiếp và ổn định với các công cụ của chính sách tiền tệ.

– Có mối quan hệ chặt chẽ và ổn định với mục tiêu trung gian được lựa chọn. Căn cứ vào tiêu chuẩn trên, các chỉ tiêu thường được lựa chọn làm mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương bao gồm:

2.3.1. Lãi suất liên ngân hàng

Việc xác định một mức lãi suất cụ thể làm mục tiêu hoạt động căn cứ trước hết vào mục tiêu trung gian được lựa chọn, chẳng hạn lượng tiền cung ứng M*. Sau đó mức cầu tiền tệ của nền kinh tế được tính toán nhằm xác định một mức lãi suất tại điểm cân bằng cung – cầu tiền tệ. Với điều kiện cầu tiền tệ ổn định, việc khống chế lãi suất cho phép đạt được mức cung tiền tệ mục tiêu. Trên cơ sở đó, mức lãi suất trên liên ngân hàng cụ thể được xác định nhằm đạt được mục tiêu trung gian.

2.3.2. Dự trữ không vay

Dự trữ không vay được sử dụng căn cứ vào cơ chế tạo tiền của hệ thống ngân hàng thương mại và tổng lượng tiền cung ứng làm mục tiêu (được thể hiện trong công thức MS = MB × m1). Dựa vào đẳng thức này, khối tiền MB và dự trữ không vay được tính toán và xác định sau khi đã loại trừ lượng tiền được công chúng nám giữ và lượng dự trữ đi vay. Mục tiêu tức thời của chính sách tiền tệ giờ đây là lượng dự trữ không vay mà ngân hàng trung ương có thể chi phối thông qua nghiệp vụ thị trường mở.

Cơ chế điều hành qua dự trữ không vay có hiệu quả khi có các dự tính chính xác về dự trữ đi vay, nhu cầu nắm giữ tiền của công chúng và hệ số nhân tiền, quan trọng hơn, mối quan hệ giữa dự trữ không vay và khối tiền cung ứng phải chặt chẽ.

2.3.3. Dự trữ đi vay

Tương tự như mục tiêu dự trữ không vay, chi tiêu này cũng được xác định căn cứ vào cơ chế tạo tiền của hệ thống ngân hàng thương mại và mối quan hệ giữa dự trữ và lượng tiền cung ứng.

Khác với mục tiêu trên, những cố gắng để đạt được mục tiêu hoạt động này có tác dụng làm giảm nhẹ sự biến động của mức lãi suất. Khi lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại tăng lên, nhu cầu vay của các ngân hàng tăng lên, thúc đẩy nhu cầu bổ sung từ ngân hàng trung ương. Điều này làm cho mức dự trữ đi vay có thể vượt quá mức mục tiêu và buộc ngân hàng trung ương phải tăng thêm mức dự trữ không vay thông qua nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất vì thế mà giảm xuống làm cho tổng tiền trung ương tăng lên và vì thế tổng lượng tiền cung ứng tăng lên. Xét ở khía cạnh này, việc lựa chọn dự trữ đi vay làm mục tiêu hoạt động thực chất là lựa chọn lãi suất làm mục tiêu trung gian và để cho tổng khối tiền biển động.

3. Các công cụ của chính sách tiền tệ

3.1. Công cụ tái cấp vốn

Nghiệp vụ của ngân hàng thương mại là kinh doanh tiền tệ, bằng nguồn vốn huy động tiền gửi là chính. Nhưng không phải lúc nào hoạt động ngân hàng cũng đều thuận lợi. Có những lúc người gửi tiền đến rút tiền quá nhiều, ngân hàng dễ rơi vào tình trạng thiếu vốn. Những trường hợp ào ạt rút tiền thường xảy ra theo những chu kỳ kinh tế. Do đó nhiều ngân hàng khó tránh khỏi tình trạng thiếu khả năng chi trả. Vì vậy nếu không có ngân hàng trung ương, các ngân hàng thương mại sẽ rất nguy hiểm vì dễ rơi vào tình trạng phá sản. Chính vào những lúc khó khăn đó, ngân hàng thương mại tìm đến sự giúp đỡ của ngân hàng trung ương, người cho vay cuối cùng.

Ngân hàng trung ương sẽ cấp tín dụng cho ngân hàng thương mại qua nhiều hình thức, thông dụng nhất là tái cấp vốn dưới hình thức chiết khấu và tái chiết khấu các thương phiếu. Khi chấp nhận chiết khấu hay tái chiết khấu là ngân hàng trung ương đã làm tăng khối tiền lưu thông. Đây là hình thức phát hành tiền được xem là lành mạnh do được bảo đảm bằng các giấy tờ có giá và khi các chứng khoán đáo hạn ngân hàng trung ương sẽ đòi được các món nợ đã cho vay. Bên cạnh đó, việc cho vay này luôn gắn liền với yêu cầu của nền kinh tế do sự tác động trực tiếp của quy luật cung cầu.

Thường thì việc điều hành công cụ tái cấp vốn để thực thi chính sách tiền tệ được thông qua lãi suất tái chiết khấu, ngân hàng trung ương có thể khuyến khích giảm hoặc tăng mức cung ứng tín dụng của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế, đồng thời giảm hoặc tăng mức cung ứng tiền. Khi thực hiện chính sách hạn chế (thắt chặt) tiền tệ, ngân hàng trung ương sẽ nâng lãi suất tái chiết khấu lên. Khi đó, các ngân hàng thương mại sẽ nâng lãi suất cho vay hoặc hạn chế bớt những cơ hội cho vay và ngược lại, nếu thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng (nới lỏng) ngân hàng trung ương hạ thấp lãi suất chiết khấu, ngân hàng thương mại trong trường hợp này đi vay rẻ, nên có khuynh hướng giảm bớt lãi suất cho vay dẫn đến nhu cầu vay gia tăng.

Tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại là công cụ đắc lực trong định hướng phát triển kinh tế. Đối với chính sách kích thích xuất khẩu, ngân hàng trung ương sẽ ưu tiên tái chiết khấu các thương phiếu xuất khẩu. Tuy nhiên khi chấp nhận tái chiết khấu là ngân hàng trung ương đã tăng khối lượng tiền cung ứng. Chính vì tầm quan trọng đó nên ngân hàng trung ương chỉ có thể chấp nhận tái chiết khấu theo điều kiện:

– Khối lượng tiền cung ứng bằng con đường tín dụng, tức cấp tín dụng cho nền kinh tế còn được phép cung ứng thêm.

– Bản thân các ngân hàng thương mại đem hỏi phiếu để tái chiết khấu phải là những hối phiếu tốt.

Như vậy, chiết khấu và tái chiết khấu chính là việc NHTW “mua” các thương phiếu của ngân hàng thương mại nhằm điều chỉnh mức cung ứng tín dụng của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế, đồng thời qua đó điều chỉnh cung ứng tiền tệ.

Tuy nhiên, mỗi một công cụ đều có ưu nhược điểm riêng của nó, công cụ tái cấp vốn (tái chiết khấu) có ưu điểm và nhược điểm sau:

Ưu điểm: Các khoản cho vay của ngân hàng trung ương đều được đảm bảo bằng các giấy tờ có giá do nó có khả năng tự thanh toán. Đồng thời công cụ tái chiết khấu có tính chất chủ động trong việc thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng hay hạn chế.

Nhược điểm: Ngân hàng trung ương thụ động khi cung ứng tiền tệ, vì việc vay hay không vay chủ động nằm ở ngân hàng thương mại.

3.2. Dự trữ bắt buộc (Reserve Requirements)

Các ngân hàng trung gian phải ký gửi tại ngân hàng trung ương một phần của tổng số tiền gửi mà ngân hàng trung gian nhận được từ dân cư và các thành phần kinh tế theo một tỷ lệ nhất định.

Phần bắt buộc ký gửi đó được gọi là tiền gửi dự trữ bắt buộc (Reserve Requirements) và tỷ lệ phần trăm mà ngân hàng trung ương quy định như trên được gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm tính trên tổng tiền gửi huy động được mà các ngân hàng thương mại không được sử dụng để kinh doanh. Mục đích của việc thực hiện dự trữ bắt buộc là nhằm:

– Duy trì khả năng thanh toán thường xuyên của các ngân hàng trung gian, hoặc trong những trường hợp khẩn cấp như trường hợp xảy ra tình trạng đồng loạt rút tiền gửi (bank run) của công chúng, tránh được tình trạng khủng hoảng ngân hàng.

– Giới hạn khả năng cho vay của ngân hàng trung gian, tránh được trường hợp ngân hàng này quá ham kiếm lợi nhuận bằng cách cho vay quá mức, có thể phương hại tới quyền lợi của người ký gửi tiền ở ngân hàng, tức là đảm bảo an toàn tiền gửi của khách hàng.

– Việc tập trung dự trữ của các ngân hàng trung gian ở ngân hàng trung ương còn là một phương tiện để ngân hàng trung ương có thêm quyền lực điều khiển hệ thống ngân hàng, tạo sự lệ thuộc của các ngân hàng trung gian đối với ngân hàng trung ương.

Về nguyên tắc, khi ấn định một mức dự trữ bắt buộc ở mức thấp, ngân hàng trung ương muốn khuyến khích các ngân hàng trung gian mở rộng mức cho vay của họ, tức là muốn gia tăng khối tiền tệ, Điều này sẽ kích thích được các hoạt động kinh tế, tăng khả năng giao lưu các nguồn vốn tài chính giữa các doanh nghiệp, thể hiện một chính sách tiền tệ “nới lỏng”. Ngược lại, khi nâng cao mức dự trữ bắt buộc, ngân hàng trung ương muốn giới hạn khả năng cho vay của ngân hàng trung gian, báo hiệu một chính sách tiền tệ “thắt chặt hay hạn chế khối tiền tệ. Điều này tác động tới khả năng thu doanh lợi của ngân hàng trung gian.

Chính vì thế, khi tiến hành gia tăng dự trữ bắt buộc đòi hỏi phải nghiên cứu trước sức chịu đựng của ngân hàng trung gian đối với mức dự trữ mới sẽ ban hành. Để ngân hàng trung gian không bị lỗ và cộng tác với ngân hàng trung ương trong việc thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương có thể trả lãi cho mức dự trữ thặng dư nào đó của ngân hàng trung gian, kèm theo một chính sách lãi suất thích hợp, cộng vào đó, ngân hàng trung ương có thể vận dụng mức dự trữ bắt buộc một cách uyển chuyển hơn, bằng cách phân biệt nhiều mức dự trữ bắt buộc, chẳng hạn, do tính chất thanh khoản của mỗi loại tiền gửi, ngân hàng trung ương có thể quy định tỷ lệ tiền dự trữ bắt buộc của tiền gửi không kỳ hạn cao hơn tỷ lệ dự trữ bắt buộc của tiền gửi có kỳ hạn.

Tóm lại, biện pháp thay đổi dự trữ bắt buộc cần thực hiện một cách thận trọng và muốn có hiệu quả, cần phải đi kèm với những biện pháp khác. Việc điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc thay đổi tùy theo mỗi nước, mỗi thời kỳ khác nhau.

3.3. Nghiệp vụ thị trường mở (Open market operations)

Trong các công cụ diễu hành chính sách tiền tệ thì công cụ nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chủ động của ngân hàng trung ương để điều chỉnh khối lượng tiền lưu thông.

Nghiệp vụ thị trường mở là việc ngân hàng trung ương tham gia mùa hoặc bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ với các ngân hàng thương mại với mục đích tác động đến thị trường tiền tệ, điều hòa cung và cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối dự trữ của các ngân hàng thương mại tại ngân hàng trung ương, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các ngân hàng này.

Trên thị trường tiền tệ, ngân hàng trung ương chủ yếu mua bán trái phiếu của Chính phủ và trái phiếu ngân hàng trung ương để làm tăng giảm khối dự trữ của ngân hàng thương mại, khi đó, ngân hàng thương mại có thể mở rộng hoặc hạn chế khả năng cho vay.

Việc ngân hàng trung ương mua trái phiếu góp phần tăng cung tín dụng, từ đó làm lãi suất tín dụng hạ thấp, kích thích các doanh nghiệp đi vay. Đây cũng là một cách gia tăng khối tiền tệ. Ngược lại, bằng các bán trái phiếu trên thị trường tiền tệ cho ngân hàng thương mại, ngân hàng trung ương thu hút tiền vào làm giảm bớt khối tiền tệ. Kết quả làm cho dự trữ của ngân hàng thương mại tại ngân hàng trung ương bị giảm, từ đó hạn chế khối lượng cấp phát tín dụng của ngân hàng thương mại.

Nếu sự mua bán trái phiếu không có ngân hàng trung ương tham gia mà chỉ là giữa các ngân hàng thương mại với nhau thì khối tiền tệ không thay đổi. Đó chỉ là sự di chuyển trái phiếu từ ngân hàng thương mại này sang ngân hàng thương mại khác và một sự di chuyển ngược lại từ một phản dự trữ thặng dư của ngân hàng thừa vào dự trữ của ngân hàng thiếu.

Công cụ nghiệp vụ thị trường mở xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào những năm 1920. Nó là công cụ tác động nhanh, linh hoạt và chủ động, công cụ này có thể hạn chế được những khiếm khuyết của công cụ dự trữ bắt buộc. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở linh hoạt ở chỗ là dễ đảo ngược được tình huống khi phát hiện tiền lưu thông thừa hay thiếu bằng cách mua hoặc bán ra các giấy tờ có giá trị. Tuy nhiên, hạn chế của nó là chỉ có thể áp dụng trong điều kiện mà hầu hết tiền trong lưu thông đều nằm ở tài khoản tại ngân hàng.

Ở Việt Nam, công cụ nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện bằng việc phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và tổ chức đấu thầu tín phiếu Kho bạc Nhà nước.

Thị trường mở được xem là một trong những cửa ngõ để ngân hàng trung ương phát hành tiền vào lưu thông hoặc rút bớt khối lượng tiền tệ lưu thông.

Nếu như chính sách chiết khấu, tái chiết khấu có tác động tổng hợp và có những hạn chế tạm thời, thì nghiệp vụ thị trường mở là công cụ tác động nhanh và linh hoạt.

3.4. Công cụ tỷ giá hối đoái

Ngân hàng trung ương can thiệp vào thị trường hối đoái nhằm ổn định tỷ giá hối đoái, để giữ vững sức mua đối ngoại của đồng tiền bản tệ. Khi tỷ giá hối đoái biến động, ngân hàng trung ương phải can thiệp vào thị trường để ổn định tỷ giá hối đoái bằng cách mua hoặc bán một lượng ngoại tệ.

Khi tỷ giá giảm mạnh thì ngân hàng trung ương đưa tiền mặt ra mua ngoại tệ, dẫn đến giá trị ngoại tệ lên cao, đồng bản tệ giảm giá trị làm cho tỷ giá được cải thiện, nhưng sẽ làm gia tăng lượng tiền trong lưu thông, Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái tăng thì ngân hàng trung ương đưa ngoại tệ ra bán, dẫn đến giá trị ngoại tệ giảm, làm cho tỷ giá được cải thiện nhưng sẽ làm giảm lượng tiền trong lưu thông.

Kết quả của sự can thiệp của ngân hàng trung ương vào thị trường hối đoái nhằm ổn định tỷ giá hối đoái, để giữ vững sức mua đối ngoại của đồng tiền bản tệ sẽ làm cho tiền lưu thông tăng lên hoặc giảm đi.

3.5. Công cụ lãi suất

Lãi suất là tỷ lệ phần trăm giữa số lợi tức thu được hàng năm so với tổng số tiền cho vay.

Để thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, ngân hàng trung ương thường điều chỉnh hạ lãi suất để kích thích các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng sử dụng tiền vay của ngân hàng trung ương để tăng cường tín dụng cho nền kinh tế. Ngược lại, để thực hiện chính sách tiền tệ hạn chế, ngân hàng trung ương điều chỉnh tăng lãi suất để hạn chế quy mô tín dụng của các ngân hàng thương mại cho nền kinh tế. Đây là công cụ linh hoạt và được ngân hàng trung ương sử dụng phổ biến để điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.

Như vậy để thực hiện chính sách tiền tệ như đã xây dựng, ngân hàng trung ương của các nước sử dụng các công cụ trên để điều hành chính sách tiền tệ quốc gia nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách kinh tế đã định.

Ở Việt Nam hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn và quy định lãi suất cơ bản. Việc công bố lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam làm cơ sở cho các ngân hàng thương mại xác định lãi suất cho vay, từ lãi suất này sẽ tác dụng điều chỉnh lãi suất cho vay, lãi suất chiết khấu, lãi suất tiền gửi của các ngân hàng thương mại.

4. Cơ chế truyền dẫn tác động của mục tiêu trung gian đến mục tiêu cuối cùng

4.1. Kênh lãi suất

Ảnh hưởng của sự biến đổi lượng tiền cung ứng đến nền kinh tế trước hết được truyền dẫn qua kênh lãi suất. Đây là kênh tác động truyền thống được J. M. Keynes mô tả như sau:

Khi khối lượng tiền tệ (M) mở rộng, lãi suất thực (i) giảm xuống làm tăng nhu cầu vay vốn và tăng nhu cầu đầu tư (I), vì thế dẫn đến tăng tổng cầu và tăng sản lượng (Y). Vấn đề chủ yếu của kênh dẫn truyền này là: sự thay đổi mức lãi suất ngắn hạn được khống chế trực tiếp bởi ngân hàng trung ương có thể ảnh hưởng đến các mức lãi suất khác của nền kinh tế theo nguyên lý cơ cấu thời hạn của lãi suất, cuối cùng, ảnh hưởng này lan truyền tới toàn bộ hệ thống lãi suất của nền kinh tế. Hiệu quả của sự tác động này phụ thuộc vào đặc điểm tổ chức của thị trường tài chính và mức độ trông đợi của thị trường.

Cần chú ý là nhu cầu đầu tư nhạy cảm với mức lãi suất thực không phải lãi suất danh nghĩa. Nhận thức này làm thay đổi trình tự ảnh hưởng của khối lượng tiền đến sản lượng.

Khi khối lượng tiền (M) cung ứng tăng lên, mức giá cả (Pe) và mức lạm phát dự tính (πe) tăng lên kéo theo sự giảm xuống của lãi suất thực (i) làm cho tổng đầu tư (I) tăng lên và do đó sản lượng tăng lên (Y).

4.2. Kênh giá tài sản

Theo quan điểm của John Maynard Keynes, lãi suất là một loại giá tài sản và được coi là kênh truyền dẫn chủ yếu. Tuy nhiên khi nghiên cứu mối quan hệ giữa tổng lượng tiền và thu nhập, các nhà kinh tế theo trường phái trọng tiền đã bổ sung thêm giá các loại tài sản khác có khả năng truyền dẫn tác động của chính sách tiền tệ như tỷ giá hối đoái hoặc giá cổ phiếu, trái phiếu.

4.2.1. Ảnh hưởng của sự biến động tỷ giá hối đoái

Sự biến động của lượng tiền cung ứng sẽ dẫn tới sự thay đổi của tỷ giá hối đoái. Kênh tác động này sẽ ảnh hưởng đến các mục tiêu cuối cùng thông qua hai con đường:

– Sự thay đổi giá tương đối

Trong điều kiện cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt, mỗi sự biến động của lượng tiền cung ứng (M) sẽ truyền dẫn tác động nhanh chóng tới tỷ giá hối đoái (R), thông qua sự thay đổi lãi suất (i) nội tệ. Sự thay đổi tương quan về tỷ giá hối đoái có tác động kích thích hoặc hạn chế xuất khẩu. Cuối cùng sản lượng (Y), công ăn việc làm vì thế mà thay đổi.

– Sự thay đổi tình trạng bảng tổng kết tài sản của các chủ thể kinh tế trong xã hội:

Khi các chủ thể kinh tế duy trì trạng thái ngoại tệ dư thừa hoặc dư thiếu trên bảng tổng kết tài sản, thì sự thay đổi của tỷ giá hối đoái, sẽ ảnh hưởng tới giá trị ròng của bảng tổng kết tài sản, từ đó mà tác động với tình hình tài chính của các chủ thể này. Điều này. đến lượt nó, sẽ điều chỉnh các hành vi chỉ tiêu và vay nợ của họ, từ đó mà ảnh hưởng tới tổng cầu và sản lượng.

Đối với những nước thuộc thị trường mới phát triển, những nước này luôn luôn đóng vai trò là con nợ của các nước khác, thì sự tăng lên của tỷ giá hối đoái sẽ làm giảm nhẹ gánh nặng của các khoản nợ có tác dụng bù đắp và đôi khi lấn át ảnh hưởng của sự thay đổi tỷ giá hối đoái so sánh.

Trong một nền kinh tế mở cửa với cơ chế tỷ giá linh hoạt, kênh truyền dẫn này rất quan trọng bởi nó không chỉ ảnh hưởng đến tổng cầu mà còn ảnh hưởng đến cả tổng cung. Một chính sách tiền tệ nới lỏng có thể dẫn tới giảm tỷ giá hối đoái và làm tăng giá nội địa của hàng nhập khẩu và do đó làm tăng giá hàng sản xuất trong nước, mặc dù không có sự tăng lên của tổng cầu. Thực chất, giá hàng sản xuất trong nước tăng trước khi có sự biến động giá hàng nhập khẩu cũng như mặt bằng giá cả bởi sự trông đợi của công chúng; sự biến động của tỷ giá là dấu hiệu của sự biến động giá trong tương lai. Giá cả tăng có tác dụng kích thích sản xuất ngay cả khi tổng cầu không có sự thay đổi.

4.2.2. Giá cổ phiếu

Lý thuyết Tobin (q) giải thích cơ chế tác động của chính sách tiền tệ thông qua ảnh hưởng của nó tới giá cổ phiếu công ty, vì thế mà ảnh hưởng tới nhu cầu đầu tư.

Nếu q > 1 và cao có nghĩa là giá cả thị trường của cổ phiếu cao hơn giá thay thế tài sản của công ty. Điều này kích thích doanh nghiệp đầu tư mới vào nhà xưởng, thiết bị, vì giá của chúng rẻ tương đối so với giá thị trường của cổ phiếu, lượng cổ phiếu cần phát hành sẽ là rất nhỏ. Nếu q < 1 là thấp, nhu cầu đầu tư mới sẽ giảm. Thay vào đó, nếu các công ty này có nhu cầu cần bổ sung thiết bị thì họ có thể mua một công ty khác và tìm được máy móc thiết bị đã sử dụng với giá rẻ. Ngược lại, nó cũng dễ trở thành đối tượng của hoạt động mua đứt.

Khi ngân hàng trung ương mở rộng khối lượng tiền (M) cung ứng, giá cổ phiếu (Pe) có xu hướng tăng thêm làm tăng chỉ số Tobin (q) và nhu cầu đầu tư mới (I). Sản lượng (Y) vì thế mà tăng lên:

4.2.3. Ảnh hưởng tới thu nhập thường xuyên của công chúng

Mức tiêu dùng thường xuyên của các hộ gia đình phụ thuộc vào nguồn thu nhập thường xuyên và dài hạn. Một bộ phận của nguồn thu nhập dài hạn là từ tài sản chính.

Khi khối lượng tiền tệ (M) tăng lên, giá cổ phiếu (Pe) tăng lên làm tăng nguồn thu nhập dài hạn, kích thích tiêu dùng (E), sản lượng gia tăng (Y).

4.3. Kênh tín dụng

Để khắc phục tình trạng rủi ro thông tin, – một “barrie” của thị trường vốn, những người đi vay tìm đến với ngân hàng. Tình trạng này tạo nên một kênh truyền dẫn quan trọng và phổ biến của chính sách tiền tệ, được thể hiện ở hai giác độ: qua hoạt động tín dụng ngân hàng và qua sự điều chỉnh bảng tổng kết tài sản của các khách hàng.

4.3.1. Ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng tín dụng được cung ứng

Trong điều kiện thị trường tài chính chưa phát triển hoặc trong tình trạng điều tiết trực tiếp thì sự thay đổi của mức cung tiền tệ sẽ dẫn đến những thay đổi của lượng tín dụng được cung ứng, từ đó ảnh hưởng đến tổng cầu, ảnh hưởng này mạnh hơn các ảnh hưởng qua lãi suất – giá của tín dụng.

Nếu trần lãi suất được sử dụng phổ biến trong điều kiện này thì các ngân hàng thường sử dụng các công cụ phi lãi suất để lựa chọn khách hàng và làm cho kênh dẫn truyền này hiệu quả hơn.

Nếu hạn mức tín dụng được sử dụng thì sự biến động của nó phản ánh trực tiếp sự biến động của lượng tiền cung ứng và phản ánh trực tiếp đến tổng đầu tư xã hội.

Bên cạnh đó, các khoản vay theo chỉ định hoặc các khoán ưu đãi của Chính phủ cũng có ảnh hưởng đến tổng khối lượng tín dụng cung ứng và do đó tổng chi tiêu của xã hội cũng thay đổi.

Tuy nhiên, kênh tác động này chủ yếu thông qua nhu cầu vay của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các khách hàng này thường thông qua ngân hàng để tiếp cận với thị trường vốn nói chung. Chính sách tiền tệ có thể tác động đến nền kinh tế thông qua hoạt động này theo cơ chế sau:

Khi tổng lượng cung tiền tệ (M) tăng làm thay đổi lãi suất (i) theo chiều hướng giảm nên nhu cầu vay vốn gia tăng, làm nhu cầu đầu tư (I) cũng tăng, thu nhập tăng.

Theo cơ chế này, chính sách tiền tệ có thể ảnh hưởng đến nhu cầu chi tiêu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hơn là các doanh nghiệp lớn – những người có khả năng tiếp cận với thị trường tài chính thông qua phát hành các chứng khoán có giá.

4.3.2. Thông qua tác động điều chỉnh bảng tổng kết tài sản

– Ảnh hưởng đến tình trạng rủi ro đạo đức và rủi ro lựa chọn đối nghịch.

Khi giá trị bảng tổng kết tài sản của các doanh nghiệp bị giảm thấp, rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch đối với hoạt động cho vay của các ngân hàng tăng lên vì các doanh nghiệp này có động cơ để đầu tư vào những dự án có mức rủi ro cao, điều này, đến lượt nó làm giảm mong muốn cho vay của ngân hàng, từ đó mà giảm chi tiêu và tổng cầu.

Nếu như ngân hàng trung ương thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, giá cổ phiếu tăng lên, giá trị ròng bảng tổng kết tài sản tăng rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch đối với hoạt động cho vay của các ngân hàng giảm, hạn chế các hoạt động gây nên rủi ro cho ngân hàng, vì thế vốn cho vay tăng lên là lý do dẫn đến tăng tổng cầu và sản lượng.

– Thông qua cải thiện tình trạng dòng lưu ngân

Các luồng thu tiền mặt rồng là nguồn trả nợ chủ yếu cho ngân hàng. Chính sách tiền mở rộng làm cho luồng thu tiền mặt trở nên dễ dàng hơn, làm tăng tính thanh khoản của bảng tổng kết tài sản của khách hàng, rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch đối với hoạt động cho vay của các ngân hàng giảm, điều này làm cho ngân hàng tin tưởng hơn vào khả năng trả nợ của khách hàng. Vì thế khối lượng vốn cho vay (CF) tăng lên, đầu tư (I) và sản lượng (Y) được mở rộng.

– Thông qua sự biến động mức giá chung

Chính sách tiền tệ làm cho mức giá chung tăng lên không dự tính trước được và làm giảm gánh nặng các khoản nợ của các doanh nghiệp, vì thế làm tăng giá trị ròng bảng tổng kết tài sản của các doanh nghiệp. Điều này, đến lượt nó làm giảm nguy cơ gây rủi ro cho các ngân hàng, rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch đối với hoạt động cho vay của các ngân hàng giảm. Vốn cho vay tăng, do đó mà đầu tư và sản lượng tăng lên.

4.3.3. Ảnh hưởng thông qua chuẩn mực đánh giá khách hàng

Khi chiến lược chính sách tiền tệ thay đổi, các chuẩn mực đánh giá khách hàng cũng có sự co giãn phù hợp.

Chẳng hạn, khi ngân hàng trung ương duy trì một chính sách tiền tệ thắt chặt, thay vì tăng lãi suất, bởi lẽ việc tăng lãi suất thường kéo theo các rủi ro lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức, các ngân hàng có thể sử dụng các tiêu chuẩn đánh giá độ tin cậy của khách hàng khắt khe hơn và nhờ đó giảm khối lượng tín dụng được cung cấp vì số lượng các khách hàng thỏa mãn các tiêu chuẩn này giảm đi. Các chuẩn mực tăng cường này chủ yếu gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, những người không có điều kiện tiếp cận với thị trường vốn để có nguồn tài trợ.

4.3.4. Ảnh hưởng trực tiếp tới giá trị tài sản của người vay và người cho vay

Khi các điều kiện tiền tệ thay đổi thì giá tài sản của người đi vay thay đổi. Điều này làm ảnh hưởng đến khả năng vay của họ đến các tài sản đó được sử dụng làm tài sản thế chấp. Mặt khác một tỷ lệ lớn tài sản của các ngân hàng được thể hiện dưới dạng các tài sản chính hoặc bất động sản. Khi giá thị trường của chúng thay đổi có thể làm ảnh hưởng đến khả năng cho vay của hệ thống ngân hàng.

(Nguồn tài liệu: TS. Lê Thị Mận, Lý thuyết Tài chính Tiền tệ)

Rate this post

Leave A Reply

Your email address will not be published.