Chủ nghĩa Khoái lạc (Hedonism)

0

Chủ nghĩa Khoái lạc – Học thuyết đạo đức có từ thời cổ đại, cho khoái lạc là hạnh phúc tối cao, mưu cầu khoái lạc là nguyên tắc của hành vi.

Chủ nghĩa khoái lạc phát triển mạnh trong suốt lịch sử triết học phương Tây, từ cổ đại đến hiện đại. Đại diện tiêu biểu nhất thời cổ đại: Epicurus (341- 270 trước CN), người cổ Hy Lạp; thời cận đại: Jeremy Bentham (1748- 1832) và John Stuart Mill (1806-1873), đều là người Anh (thuyết vị lợi).

Chủ nghĩa Khoái lạc (Hedonism) là hệ thống triết lý đề cao việc mưu cầu lạc thú và tránh né khổ đau như là mục đích chủ yếu trong cuộc sống. Con người chỉ có một nghĩa vụ đạo đức duy nhất là thoả mãn nỗi khát khao khoái lạc và loại bỏ, hay chí ít giảm thiểu trong khả năng có thể, mọi nỗi khổ đau của mình trong đời.

Quan niệm của chủ nghĩa khoái lạc về hạnh phúc:

Phái Xirenait (Cyrenaics) do Arixtíp (Aristippus, khoảng 430-350 TCN.), một môn đồ của Xôcrát, sáng lập, là một thứ chủ nghĩa khoái lạc tầm thường, vị kỷ, đưa ra một học thuyết mà theo đó, sự thỏa mãn những dục vọng trực tiếp của cá nhân, không cần quan tâm đến người khác, được coi là mục đích tối cao. Những khoái cảm xác thịt, theo phái này, còn đáng giá hơn những niềm vui trí tuệ hư ảo và phức tạp. Thực tế lịch sử đã cho thấy sai lầm cơ bản trong quan điểm của phái này, vì khi cá nhân con người chạy theo những khoái cảm xác thịt tầm thường thì không thể có được hạnh phúc toàn diện, lâu dài được.

Trái với chủ nghĩa khoái lạc vị kỷ, chủ nghĩa khoái lạc Êpiquya, gắn với Trường phái triết học do Êpiquya (Epicurus,341 – 271 TCN.) sáng lập là một thứ chủ nghĩa khoái lạc lý tính. Phái Êpiquya cho rằng, khoái lạc chân chính chỉ có thể đạt được bằng lý trí. Họ đề cao những phẩm hạnh như tính tự chủ và sự cẩn trọng. Khoái lạc lớn nhất là ở cuộc sống bình dị và điều độ, tiêu dao với bè bạn và cùng đàm luận triết học với họ. Họ lập luận rằng, sẽ là không tốt nếu làm điều gì đó để có được khoái cảm nhất thời nhưng lại gây ra hậu quả xấu cho tương lai, chẳng hạn, sự hoang dâm quá độ sẽ có hậu quả bất hạnh về sau.

Ở thế kỷ XVIII và XIX, những nhà triết học Anh, như Gierơmi Bentam (Jeremy Bentham, 1748 – 1832), và Giôn Xtuat Minlơ (John Stuart Mill, 1806 – 1873) đã đề xuất học thuyết khoái lạc phổ quát, được gọi là chủ nghĩa vị lợi (utilitarianism).

Theo Bentam, tiêu chuẩn cuối cùng của hành vi đạo đức của cá nhân là làm điều lợi cho xã hội theo nguyên tắc “hạnh phúc lớn nhất cho số đông người nhất” (the greatest happiness for the greatest number).

Minlơ đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng của Bentam. Song, khác với Bentam, Minlơ đã phân biệt sự khác nhau về chất giữa các loại khoái cảm (pleasures). Ông cho rằng, những khoái cảm tinh thần và đạo đức cao hơn những khoái cảm vật chất. Cũng có sự khác nhau giữa hạnh phúc (happiness) và sự mãn nguyện (contentment), “thà làm một Xôcrát không thỏa mãn còn hơn một tên ngu đần mãn nguyện”. Minlơ cũng phân biệt những trình độ cao thấp của hạnh phúc, chẳng hạn, thưởng thức nhạc kịch (opera) là hạnh phúc ở trình độ cao hơn so với việc chơi những trò chơi trẻ con đơn giản, mặc dù chúng có thể làm cho nhiều người vui thích hơn là đi xem biểu diễn nhạc kịch. Cũng theo Minlơ, những người ít học thức thường chạy theo những khoái cảm đơn giản, tầm thường; chỉ có những trí thức mới hiểu biết được giá trị của những khoái cảm tinh thần ở trình độ cao.

(Tổng hợp)

Rate this post

Leave A Reply

Your email address will not be published.