Chủ nghĩa thực chứng: nguồn gốc và luận điểm cơ bản

0

Trình bày nguồn gốc và những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa thực chứng?

Chủ nghĩa thực chứng ra đời vào những năm 30 – 40 của thế kỷ XIX ở Pháp, sau đó ở Anh với khẩu hiệu: “Bản thân khoa học đã là triết học”; “những tri thức về thế giới là đặc quyền của khoa học thực chứng”. Các nhà triết học thực chứng cho rằng cần phải xây dựng triết học theo mô hình “khoa học thực chứng”. Theo họ, triết học không nên nghiên cứu những vấn đề như bản chất sự vật, các quy luật chung của thế giới mà đi tìm phương pháp khoa học có hiệu quả nhất, đáng tin cậy nhất mới là nội dung chủ yếu của việc nghiên cứu triết học.

Sự ra đời của chủ nghĩa thực chứng một mặt, phản ánh sự khủng khoảng xã hội, nhất là mặt tinh thần của chủ nghĩa tư bản hiện đại; nhưng mặt khác nó xuất phát từ đặc điểm của khoa học tự nhiên hiện đại về việc nghiên cứu phương pháp luận nhận thức khoa học. Cho nên, triết học thực chứng muốn chuyển hướng nghiên cứu của triết học từ phương diện thế giới quan sang phương diện phương pháp luận của khoa học.

Xét về lịch sử, triết học thực chứng đã trải qua 3 giai đoạn. Đó là chủ nghĩa thực chứng cổ điển vào những năm 30 – 40 của thế kỷ XIX do Côngtơ (Comte) ở Pháp, Spenxơ (H.Spencer) ở Anh sáng lập. Họ coi các hiện tượng và các sự kiện mới là cái thực chứng, v.v… thực chất đây là chủ nghĩa duy tâm chủ quan, phục hồi tư tưởng bất khả tri của Hium.

Giai đoạn 2 là chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán vào những năm 70 – 90 thế kỷ XIX. Đại biểu của giai đoạn này phải nói đến Makhơ (Mach) và Avênariút (Avenarius). Họ đề xướng quan niệm duy tâm chủ quan về kinh nghiệm, tuyệt đối hóa vai trò của cảm giác. Cho nên chủ nghĩa thực chứng đã chuyển từ chủ nghĩa hiện tượng mang tính chất bản thể luận sang sang chủ nghĩa hiện tượng mang tính nhận thức luận.

Giai đoạn 3 là giai đoạn của chủ nghĩa thực chứng mới, ra đời sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất và phát triển mạnh vào những năm 50 của thế kỷ XX. Những người sáng lập là Rớtxơn (Russell) và Uýtgen Xten (Wittgen Steinm). Về sau này triết học phân tích đã xuất hiện một chi phái lớn: Chủ nghĩa thực chứng logíc và triết học phân tích của Cacnáp (Carnap, Slích (Shelich), v.v… Nhưng thực chất họ đều coi nhiệm vụ phân tích hình thức và phân tích logíc là nội dung chủ yếu của triết học, rằng logíc toán – lý hiện đại làm cơ sở sáng tạo ra ngôn ngữ nhân tạo để đảm bảo sự nhất trí giữa cấu trúc cú pháp của mệnh đề và hình thức lôgíc của nó.

Rate this post

Leave A Reply

Your email address will not be published.