Hướng dẫn Trình bày luận văn

0

Luận văn là kết quả của toàn bộ nỗ lực trong suốt thời gian học tập. đó sự thể jiện toàn bộ năng lực của người nghiên cứu. Trình bày một luận văn thể hiện ở cấu trúc và văn phong theo những khuôn mẫu nhất định.

Hình thức và cấu trúc của luận văn

Cũng như báo cáo khoa học, luận văn được trình bày trên khổ giấy A4, đánh máy một mặt và được trình bày theo một cấu trúc gồm 3 phần chính: phần giới thiệu, phần nội dung và phần phụ lục.

(1)  Phần giới thiệu:

Bìa: gồm trang bìa chính và trang bìa phụ hoàn taòn giống nhau và được viết theo thứ tự từ trên xuống, như sau:

  • Tên trường, khoa, bộ môn nơi người nghiên cứ làm luận văn.
  • Tên tựa đề tài nghiên cứu.
  • Tên người hướng dẫn
  • Tên tác giả
  • Địa danh và năm bảo vệ luận văn.

Trang ghi lời cảm ơn: Trong trang này tác giả có thể ghi lời cảm ơn đối với cơ quan đở đầu để thực hiện luận văn (nếu có), ghi ơn các cá nhân, không loại trừ người thân đã có nhiều công lao trợ giúp cho việc thực hiện công trình nghiên cứu của tác giả.

Lời nói đầu: Lời nói đầu cho biết một cách vắn tắt lý do và bối cảnh của đề tài, ý nghĩa lý thuyết và thực tiễn của đề tài, kết quả đạt được và những vấn đề tồn tại. Trang mục lục: Mục lục thường đặt đầu luận văn sau trang cảm ơn.

Trang ký hiệu và viết tắt: Liệt kê các chữ theo thứ tự vần chữ A-Z của những cho các từ viết tắt trong luận văn.

Trang chỉ mục: Chỉ mục củng giống như mục lục, nhưng dể chỉ các bảng biểu và hình ảnh, giúp người đọc dể tra cứu hình, bảng.

(2)  Phần nội dung

Chương I. Dẫn nhập, dẫn luận

  • Lý do nhiên cứu, ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn của đề tài.
  • Giời thiệu chung về vấn đề nghiên cứu, tổng quan lịch sử nghiên cứu và các quan điểm về vấn đề nghiên cứu, nhằm khẳng định đề tài có tính mới mẽ.
  • Giới hạn đề tài nghiên cứu.
  • Mục tiêu nhiệm vụ nghiên cứu.
  • Các giả thuyết (nếu có)
  • Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
  • Thể thức nghiên cứu: phương pháp và phương tiên sự dụng trong nghiên cứu thu thập luận cứ và kiểm nghiệm…

Các chương tiếp: Nội dung nghiên cứu và kết quả nghiên cứu.

Phần này được trình bày thành nhiều chương tạo thành một hệ thống logic. Thông thường chương đầu là chương những cơ sơ chung về vấn đề nghiên cứu. , các chương tiếp theo là chương kết quả đạt được về mặt lý thuyết và áp dụng.

Chương cuối cùng: Tóm tắt, kết luận và đề nghị:

Đây là chương được người đọc chú ý nhiều nhất và nhiều khi đọc trước các chương khác. Vì muốn biết người nghiên cứu nêu lên những gì mới mẽ, kết quả nghiên cứu có quan trọng nào.

Ở phần tóm tắt, người nghiên cứu trình bày ngắn gọn nôi dung của công trình nghiên cứu. Phần tóm tắt cho thấy vấn đề được nghiên cứu ở vấn đề nào và giá trị ra sao. Tóm tắt không phải là một dàn bài rút gọn chương đã trình bày ở phần trên, mà thự chất là ghi lại súc tích và đầy đủ kết quả nghiên cứu.

Phần kết luận trình bày nổi bật kết quả công trình nghiên cứu, cho thấy những phát hiện mới và mối quan hệ trực tiếp với các giả thuyết đã nêu từ đầu. Các kết luận phải được trình bày hết sức chặt chẽ theo các yêu cầu sau:

  • Kết luận phải logic, phù hợp với nội dung vấn đề nghiên cứu.
  • Các kết luận phải khách quan dựa trên tài liệu chính xác.
  • Kết luận phải ngắn gọn, trình bày một cách chắc chắn và hình thành một hệ thống nhất định.

Phần đề nghị làm sáng tỏ thêm vấn đề, giúp người đọc rõ hơn tính chất và mục tiêu của công trình nghiên cứu. Phần đề nghị còn thể hiện tầm nhìn rộng rải của người nghiên cứu. Các ý kiến đề nghị phải thật hết sức thận trọng, chỉ nêu những đề nghị có cơ sở khoa học liên quan đến toàn bộ nội dung vấn đề đã dược nghiên cứu và gắn liến với chủ đề đó. Nội dung đề nghị thường liên quan đến:

  • Vận dụng các kết quả thu được.
  • Tiếp tục nghiên cứu ở những mặt khác.

(3)  Phần tài liệu tham khảo và phụ lục

Trang tài liệu tham khảo:

Tài liệu tham khỏa bắt buộc phải có trong luận văn. Yêu cầu không phải là hình thức mà chính vì tài liệu tham khảo là toàn bộ phần hửu cơ của luận văn, phản ánh tính sáng tạo và tính tự lập, nhiệt tình khoa học,  thể hiện mối liên hệ giữa người nghiên cứu với khoa học. Phần này có thể ghi theo từ nhóm tài liệu như: tài liêu trong nước, tài liêu nước ngoài; các văn bản, sách các loại tùy vào số lượng của các tài liệu đã tham khảo trích dẫn trong luận văn.

  • Các ghi các thư mục tài liêu tham khảo như sau:

Tác giả: ……. . Tựa sách………… Nhà xuất bản, nơi suất bản, năm.

  • Khi có sự tham khảo nhiều sách của một tác giả, thi cách ghi các thư mục có thể nhu sau:

Tác giả: …….(năm). Tựa sách………… Nhà xuất bản, nơi suất bản, năm.

  • Nếu tác giả gồm nhiều người, chỉ cần ghi họ tên tác giả thứ nhất rồi ghi tiếp „và những người khác“ Cách ghi các phần còn lại (tựa sách, nhà xuất bản, nơi và năm) như ơ phần trên
  • Nếu là sách của tập thể tác giả thì chi ghi tên của chủ biên, ví dụ:

Tác giả: …….(chủ biên) . Tựa sách………… Nhà xuất bản, nơi suất bản, năm.

  • Nếu sách có nhiều tác giả có ghi rõ chủ đề nào của ai thì có thể ghi như sau:

Tác giả: ……. . Tựa chủ đề ……. . Trong: họ và tên chủ biên (chủ biên). Tựa sách. Nhà xuất bản, nơi suất bản, năm.

  • Nếu tài liệu đăng trên các tạp chí thì ghi:

Tên tác giả. Tựa bài. Tên tạp chí, số, năm

  • Nếu là tài liệu dịch thì ghi thêm Họ và Tên sau tựa sách như sau:

Tác giả: …... Tựa sách…….. (Họ và Tên người dịch). Nhà xuất bản, nơi suất bản, năm.

Trang phụ lục:

Các tài liệu liên quan đến công trình nghiên cứu vì quá dài nên không thể trích dẫn, đặt vào trong các phần nội dung luận văn, nhưng cần thiết giúp người đọcnắm dữ kiện, luận cứ chính xác. Phụ lục có thể trình bày theo từng nhóm, phần tùy theo lĩnh vực của tài liệu và ghi theo thứ tự phụ đính A – Z. ví dụ:

  • Phụ đính A: Chương trình môn học
  • Phụ đính B: Nội dung văn bản liên quan đến xây dựng chương trình đào tạo.
  • Phụ đính C: Số liệu thống kệ về thực trạng đào tạo và bồi dưỡng giáo viên dạy kỹ thuật…

Ngôn ngữ khoa học

VĂN PHONG

Luận văn khoa học là một ấn phẩm công bố kết quả nghiên cứu của tác giả. Nội dung ấn phẩm chứa đựng nội dung thông tin khoa học có giá trị. Mục đích chính của ấn phẩm không chỉ cho người hướng dẫn hay phản biện đọc, mà chính là để cho đọc giả, những người quan tâm thông hiểu nội dung trình bày trong luận văn. Chính vì  vậy, ngôn ngữ trình bày phải chính xác, trong sáng, dể hiểu. Những lối trình bày trí tượng tượng dồi dào, lối văn linh hoạt, phóng túng, tất cả đều bị hạn chế tối đa trong khi trình bày kết quả công trinh nghiên cứu.

Lời văn trong tài liệu khoa học thường được dùng ở thể bị động. Trong tài liệu không nên viết „chúng tôi đã thực hiện cuộc điều tra trong 3 tháng“, mà viết „Cuộc điều tra đã thực hiện được trong 3 tháng“ Trong trường hợp cần nhấn mạng chủ thể thì cần trình bày ở dạng chủ động.

Văn phong phải trình bày một cách khách quan kết quả nghiên cứu, tránh thể hiện tình cảm chủ quan của người nghiên cứu đối với đối tượng, khách thể nghiên cứu.

SƠ ĐỒ, HÌNH, ẢNH

Các loại sơ đồ, biểu đồ, là các hình ảnh trực quan về mối liên hệ giữa các yếu tố trong hệ thống hoặc liên hệ giữa các công đoạn trong một quá trình. Sơ đồ được sử dụng trong trường hợp cần cung cấp một hình ảnh khái quát về cấu trúc của hệ thống, nguyên lý vận hành của hệ thống.

Hình vẽ cung cấp một hình ảnh tương tự đối tượng nghiên cứu về mặt hình thể và tương quan trong không gian, nhưng không quan tâm đến tỉ lệ hình học. Hình vẽ được sử dụng trong trường hợp cần cung cấp những hình ảnh tương đối xác thực của hệ thống.

Ảnh được sử dụng trong trường hợp cần thiết để cung cấp các sự kiện một cách sống động.

Sơ đồ, hình, ảnh phải được đánh số theo thứ tự và được gọi chung là “hình”.

TRÍCH DẪN KHOA HỌC

Khi sử dụng kết quả nghiên cứu của người khác thì người nghiên cứu phải có trách nhiệm ghi rõ xuất sứ cảu tài liệu đã trích dẫn, là một nguyên tắc hết sức quna trọng. Tài liệu mà tác giả đã trích dẫn cần ghi theo một số nguyên tắc về mô tả tài liệu.

  • Trích dẫn được sử dụng trong các trường hợp sau:
    • Trích dẫn để làm luận cứ cho việc chứng minh một luận điểm.
    • Trích dẫn để bác bỏ khi phát hiện cho sai trong nghiên cứu của đồng nghiệp.
    • Trích dẫn để phân tích đối tượng nghiên cứu.

Khi viết trích dẫn, người nghiên cứu cần tôn trọng nguyên tắc bảo mật của nguồn tài liệu được cung cấp, nếu nơi cung cấp có yêu cầu này. Người nghiên cứu cần hỏi ý kiến nơi cung cấp tài liệu và làm rõ, tài liệu đó có thuộc bí mật quốc gia, bí mật của một hãng, bí mật của cá nhân hay không, đồng thời xin phép được sử dụng trong các ấn phẩm công bố.

Nơi cung cấp thông tin có thể cho phép sử dụng tài liệu trên nhiều mức độ, như: về nguyên tắc có được công bố không? Nếu được công bố, thì công bố đến mức độ nào? Có trường hợp, vì lợi ích khoa học, người viết cần nêu một sự kiện nào đó để nêu bài học chung, mà không cần nêu đích danh tác giả, thì nguyên tắc bảo mật cũng được thực hiện. Việc bảo mật trong trường hợp này xuất phát từ sự cần thiết bảo vệ lợi ích chung của khoa học, nhưng vẫn giữ thể diện của đồng nghiệp.

  • Ý nghĩa của việc trích dẫn:

Ý nghĩa khoa học: Viết đầy đủ, rõ ràng xuất xứ của trích dẫn khoa học là sự thể hiện tính chuẩn xác khoa học của tác giả. Nó giúp người đọc dễ tra cứu lại các tư tưởng, các luận điểm, các tác phẩm mà tác giả đã trích dẫn. Nếu trích dẫn mà không ghi rõ tác phẩm được trích dẫn, trích dẫn ý sai với tinh thần nguyên bản,…thì người đọc không biết được phần nào là luận điểm của tác giả, phần nào là tác giả trích dẫn của đồng nghiệp, đến khi cần tra cứu lại thì không thể tìm được tài liệu gốc.

Ý nghĩa trách nhiệm: Với một trích dẫn khoa học ghi rõ tên tác giả của trích dẫn, đồng nghiệp biết rõ được trách nhiệm của người đã nêu ra luận điểm được trích dẫn. Điều này cần được đặc biệt chú ý khi lặp lại một trích dẫn mà đồng nghiệp đã thực hiện.

Ý nghĩa pháp lý: Thể hiện sự tôn trọng quyền tác giả khi công bố là phải ghi rõ trích dẫn xuất xứ. Nếu trích dẫn nguyên văn của tác giả khác thì cần cho toàn bộ đoạn trích dẫn vào ngoặc kép và ghi rõ xuất xứ. Nếu chỉ trích dẫn một ý tưởng thì cần ghi rõ ý đó, tư tưởng đó là của tác giả nào, lấy từ sách nào.

Ghi trích dẫn là sự thể hiện ý thức tôn trọng pháp luật về quyền tác giả. Nếu không ghi trích dẫn, người viết hoàn toàn có thể bị tác giả kiện và bị xử lí theo các luật lệ về sở hữu trí tuệ.

Ý nghĩa đạo đức: Viết đầy đủ, chuẩn xác các trích dẫn khoa học là thể hiện sự tôn trọng những cam kết về chuẩn mực đạo đức trong khoa học. Những loại sai phạm cần tránh trong trích dẫn khoa học là chép toàn văn một phần hoặc toàn bộ công trình của người khác mà không ghi trích dẫn; lấy ý, hoặc nguyên văn của tác giả mà không ghi trích dẫn xuất xứ. Dù có ghi tên tác phẩm vào mục: “Tài liệu tham khảo”, nhưng không chỉ rõ những điều đã trích dẫn cũng vẫn là vi phạm.

Nơi ghi trích dẫn

Trích dẫn khoa học có thể ghi cuối trang, cuối chương hoặc cuối tài liệu, tùy thói quen của người viết và tùy nguyên tắc do các cơ quan liên quan quy định.

Trích dẫn khoa học ghi ở cuối trang được gọi là cước chú. Cước chú cũng được dùng để giải thích thêm một thuật ngữ, một ý, một câu trong trang mà, vì lý đó không thể viết chèn vào mạch văn làm mất cân đối phần chính của bài. Mỗi trích dẫn được đánh số chỉ dẫn bằng một con số đặt cao trên dòng chữ bình thường. Trong các chương trình soạn thảo của máy tính, người ta đã đặt sẵn chế độ đánh số cước chú và có thể tự động điều chỉnh trong toàn bộ tác phẩm.

  • Mẫu ghi trích dẫn

Các nhà xuất bản thường có những truyền thống khác nhau. Một số nhà xuất bản và cơ quan khoa học ở nước ta có quy định về cách ghi trích dẫn. Vì dụ, quy định về cách ghi trích dẫn của một số nhà xuất bản được ghi:

Tác giả: ……. . Tựa sách Nhà xuất bản, nơi suất bản, năm, trang.

Tác giả: ……. . Tựa sách Nhà xuất bản, nơi suất bản, năm, trang đến

Vài điểm lưu ý khi ghi trích dẫn

  1. Sử dụng một cách đánh số trích dẫn thống nhất trong toàn bộ tài liệu. Phân biệt cách ghi các loại sách, sách nhiều tập, tạp chí, báo hàng ngày.
  2. Cách ghi số chỉ dẫn tài liệu tham khảo có thể như sau:

Khi ghi trích dẫn ở cuối trang thì hoặc ghi dãy số liên tục từ đầu cho đến hết tài liệu, hoặc bắt đầu lại thứ tự theo từng trang. Tuy nhiên, nên sử dụng cách đánh số tự động của chương trình soạn thảo trên máy tính. Chương trình này giúp tự động sắp xếp tài liệu tham khảo khi tác giả cần thêm hoặc bớt.

Khi ghi trích dẫn ở cuối chương hoặc cuối sách thì mỗi tài liệu có thể chỉ cần liệt kê một lần theo thứ tự chữ cái, nhưng trong số chỉ dẫn ở mỗi đoạn trích, cần ghi kèm số trang. Ví dụ, đoạn văn được trích dẫn ở trang 254 trong tài liệu số 15 được ghi trong dấu ngoặc vuông là [15,254]. Tuy nhiên cách này chỉ thuận lợi trong trường hợp đánh máy cơ khí, không tận dụng được mặt ưu việt trong cách đánh số trong phần mềm soạn thảo văn bản của máy tính.

Khi trích dẫn nhiều lần một tài liệu, trước đây người ta dùng những kí hiệu latin như ibid., op.cit., loc.cit. để tránh lặp lại trích dẫn cũ. Hiện nay, xu hướng dùng kí hiệu tiếng Việt dưới dạng như:

Td: Đã dẫn: Xem (15), tr. 254.

Rate this post

Leave A Reply

Your email address will not be published.