Quốc Tế Thứ Nhất (Quốc tế I)

0

Tìm hiểu lịch sử: Quốc tế thứ nhất (Quốc tế I hay Đệ nhất quốc tế / Hội liên hiệp lao động quốc tế).

I – Sự phục hồi và phát triển của phong trào công nhân giữa thế kỷ XIX

Sau khi cuộc cách mạng 1848-1849 thất bại, chính phủ phản động ở các nước châu Âu tiến hành khủng bố gắt gao, truy nã những chiến sĩ vô sản. Một số nhà lãnh đạo bị tù đày, báo chí của công nhân bị đóng cửa. Vụ án ở Khuên (Đức) năm 1852 đã dựng lên nhiều chuyện bịa đặt để kết án những người cộng sản. Mấy tháng sau, “Đồng minh những người cộng sản” phải giải tán.

Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1857- 1859 làm cho mâu thuẫn xã hội càng thêm sâu sắc. Nó bắt đầu từ Mỹ rồi lan sang Anh và sau đó mở rộng ra các nước châu Âu. Nó làm phá sản hàng loạt xí nghiệp, nhiều công ty bị đóng cửa. Nạn thất nghiệp, nghèo đói lan tràn. Ở Anh, số người thất nghiệp năm 1858 tăng gấp 7 lần năm 1853. Tình trạng đó tạo điều kiện khách quan cho sự hồi phục phong trào công nhân. Ngọn lửa đấu tranh của công nhân lại tiếp tục bùng lên. Công nhân Pháp tiến hành bãi công và buộc chính phủ Napôlêông III phải hủy bỏ đạo luật Sapơliê vào năm 1864. Cuộc đấu tranh đòi ngày làm việc 9 giờ của công nhân Anh năm 1858 đã góp phần đẩy mạnh sự thóng nhất của phong trào, thành lập “Hội đồng các công đoàn Luân Đôn” tuy rằng hoạt động của nó không vượt khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa nghiệp đoàn. Năm 1863, công nhân Đức lần đầu tiên thành lập “Liên minh công nhân toàn Đức” nhưng chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Látxan, chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản đầy tác hại.

Nhưng trong khi số lượng công nhân ngày càng lớn, mức độ tập trung ngày càng cao thì tình trạng thiếu một tổ chức vững vàng là một nhược điểm đáng chú ý. Những quan điểm tư sản, không tưởng và bè phái còn có ảnh hưởng ít nhiều trong phong trào công nhân. Bài học kinh nghiệm của cuộc cách mạng 1848-1849 đã làm cho họ bước đầu nhận thức sự phản bội của bọn đại tư sản tự do, sự bấp bênh và thiếu khả năng lãnh đạo của giai cấp tiểu tư sản. Do đó, cần phải làm cho giai cấp vô sản giác ngộ về vị trí, đặc điểm và trách nhiệm lịch sử của mình.

Trong những ngày cách mạng sôi sục ở châu Âu, Mác và Ăngghen đã theo dõi và tham gia phong trào đấu tranh của công nhân. Sau khi thất bại, những lãnh tụ của giai cấp vô sản vẫn giữ vững ngọn cờ cách mạng, phấn đấu không mệt mỏi để chuẩn bị những trận chiến đấu quyết liệt sau này.

Tháng 6-1849, Mác bị trục xuất khỏi nước Pháp, ông liền đến Luân Đôn và năm sau, Ăngghen cũng sang Anh, ở Mantretxtơ. Hai ông vẫn thường xuyên bám sát những bước đi của phong trào cách mạng và của những đồng chí mình, ngay cả trong những ngày đen tối nhất. Tháng 3/1850, những chi nhánh của Đồng minh ở các nước đều nhận được “Thư của Ban chấp hành trung ương gửi Đồng minh những người cộng sản” do Mác và Ăngghen viết. Đó là một văn kiện vô cùng quan trọng, phân tích sâu sắc những sự kiện 1848-1849 ở Đức, vạch ra đường lối sách lược của Đảng vô sản trong cuộc cách mạng tương lai và nêu lên học thuyết về cách mạng không ngừng mà sau này, Lênin tiếp tục phát triển trong sự chuyển biến từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Trong thời gian này, Mác tập trung nghiên cứu cuộc cách mạng 1848 ở Pháp. Ông hoàn thành hai tác phẩm nổi tiếng: “Đấu tranh giai cấp ở Pháp” (1850) và “Ngày 18 tháng Sương mù của Luy Bônapactơ” (1852). Cùng lúc đó, Ăngghen viết nhiều bài báo, sau tuyển thành tập “Cách mạng và phản cách mạng ở Đức” (1851). Hai ông đã tổng kết kinh nghiệm của cuộc cách mạng vừa qua, lần đầu tiên vận dụng quan điểm duy vật biện chứng vào việc nghiên cứu lịch sử và phát triển một loạt vấn đề lý luận quan trọng về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản.

Năm 1861, Mác bắt tay vào viết tác phẩm kinh tế “Tư bản”, tập đầu được xuất bản vào năm 1867. Trong lời tựa, Mác viết: “Mục đích cuối cùng của bộ sách này là rút ra quy luật kinh tế trong sự vận động của xã hội hiện đại”, nghĩa là của xã hội tư bản chủ nghĩa. Bắt đầu từ việc nghiên cứu về hàng hóa, Mác đã phân tích phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, vạch trần những mâu thuẫn nội bộ của nó, làm sáng tỏ quá trình phát sinh, phát triển và suy vong của chủ nghĩa tư bản. Qua đó, Mác khẳng định trên cơ sở khoa học rằng chủ nghĩa tư bản suy sụp và chủ nghĩa xã hội thắng lợi là điều không thể tránh khỏi.

Mặc dầu bận rộn nghiên cứu lý luận, Mác và Ăngghen vẫn rất quan tâm tới công tác tổ chức. Sau khi Đồng minh những người cộng sản giải tán. Mác và Ăngghen ra sức giữ gìn và bồi dưỡng những cán bộ của phong trào, giúp đỡ họ học tập lý luận. Trong khi cộng tác với các tờ báo của phong trào Hiến chương (báo Nhân dân) và của phái dân chủ tư sản (tờ Diễn đàn Niu Óoc), hai ông cũng tranh thủ mọi khả năng để tuyên truyền học thuyết cộng sản về sự tất yếu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự kiên trì đó đã giáo dục và tập hợp được những phần tử tiên tiến nhất trong giai cấp vô sản ở các nước, xây dựng được một tổ chức quốc tế thay thế cho “Đồng minh những người cộng sản” trước đây.

II – Sự thành lập quốc tế thứ nhất – Tuyên ngôn và điều lệ

1. Sự thành lập Quốc tế thứ nhất

Ngày 22 tháng 7 năm 1863, công nhân các nước ở Luân Đôn tiến hành một cuộc hội nghị lớn để tỏ lòng đồng tình với cuộc đấu tranh của nhân dân Ba Lan năm 1863 và phản đối các chính phủ châu Âu giúp đỡ Nga hoàng đàn áp cuộc khởi nghĩa đó. Hội nghị đã nói lên sự cần thiết phải có một tổ chức quốc tế và ra lời kêu gọi. Năm sau, ngày 28 tháng 9 năm 1864, một cuộc họp được triệu tập ở Luân Đôn. Hội nghị đã quyết định thành lập một tổ chức công nhân quốc tế thường trực lấy tên là Hội Liên hiệp Lao động quốc tế (Quốc tế I), bầu ra một Ban chấp hành trung ương có nhiệm vụ khởi thảo tuyên ngôn và điều lệ. Mác là người lãnh đạo hội nghị, được bầu vào thường vụ của Ban chấp hành trung ương với tư cách là một nhà hoạt động nổi tiếng của phong trào cách mạng Đức. Trong đó còn có những đại biểu xuất sắc của các công đoàn Anh, công nhân Pháp và của các nước khác, tổng cộng 32 người. Việc khởi thảo tuyên ngôn và điều lệ được trao cho một tiểu ban, trong đó có Mác, nhà cách mạng lỗi lạc và có uy tín lớn lao trong giai cấp vô sản.

Mục đích của Quốc tế là: “đoàn kết toàn thể giai cấp công nhân có tinh thần chiến đấu ở châu Âu và châu Mỹ thành một đạo quân to lớn duy nhất”. Trong điều kiện giai cấp công nhân còn phân tán thành nhiều phe phái, chịu ảnh hưởng của nhiều quan điểm khác nhau thì Quốc tế cần phải có “một cương lĩnh không đóng cửa” để tập hợp họ lại và nâng cao dần trình độ hiểu biết về chính trị của công nhân. Vận dụng một cách mềm dẻo và trung thành với những nguyên lý cơ bản đã được đề ra trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác đã hoàn thành nhiệm vụ khó khăn đó. Ngày 1-11-1864, dự thảo của Mác được Ban chấp hành trung ương nhất trí thông qua, trở thành Tuyên ngôn và Điều lệ chính thức của Quốc tế.

2. Tuyên ngôn thành lập và điều lệ của Quốc tế thứ nhất

Trong Tuyên ngôn thành lập, Mác đã dùng tài liệu thực tiễn để đập tan luận điệu của giai cấp tư sản cho rằng nếu tổng số nhập khẩu và xuất khẩu của nước Anh tăng lên 50% thì ở đó không còn nạn nghèo nàn nữa. Trong xã hội tư bản, mọi sự cải tiến máy móc, áp dụng khoa học vào sản xuất, chinh phục thuộc địa, mở rộng thị trường, buôn bán tự do… đều không thể xóa bỏ được nạn nghèo khổ của quần chúng lao động. Mà trái lại, trên cơ sở xấu xa hiện nay, bất cứ sự phát triển mới nào của sức sản xuất, của lao động cũng đều nhất định làm cho sự đối lập trong xã hội sâu sắc hơn, đều nhất định khoét sâu thêm sự đối kháng trong xã hội.

Sau khi nhắc tới thắng lợi của giai cấp công nhân Anh trong cuộc đấu tranh đòi ngày làm 10 giờ, “Tuyên ngôn” nhấn mạnh tới vấn đề thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.

Muốn thủ tiêu hoàn toàn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và giai cấp tư sản, muốn chấm dứt chế độ nô lệ làm thuê để giải phóng quần chúng lao động thì phải tiến hành đấu tranh trên một quy mô rộng lớn. Do đó, giai cấp vô sản sẽ vấp phải sự phản kháng mãnh liệt của những tên trùm tư bản và trùm ruộng đất là những kẻ luôn luôn dùng đặc quyền chính trị của mình để duy trì và bảo vệ sự lũng đoạn về kinh tế, gây nên những trở ngại cho sự nghiệp giải phóng lao động. Vì vậy, phải trước hết tiêu diệt đặc quyền chính trị của chúng, việc giành chính quyền trở thành một nghĩa vụ của giai cấp công nhân.

Cuối cùng “Tuyên ngôn” nhấn mạnh nhiệm vụ đoàn kết quốc tế của giai cấp vô sản. Nếu coi thường sự liên minh anh em cần phải có giữa công nhân các nước khác nhau để cùng nhau tự giải phóng thì sự nghiệp chung sẽ thất bại. Đồng thời, giai cấp vô sản còn phải phản đối những hoạt động xâm lược và ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, phải ngăn chận và vạch trần chính sách ngoại giao phản động của chính phủ nước mình và phải coi đó là một bộ phận của cuộc đấu tranh chung để giải phóng giai cấp công nhân. Bản Tuyên ngôn kết thúc bằng khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại !” đã được nêu trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”.

Điều lệ của Quốc tế là bức phác họa đầu tiên về chế độ tập trung dân chủ trong tổ chức của công nhân. Đại hội là cơ quan tối cao của Quốc tế, giữa hai đại hội thì Ban chấp hành trung ương do đại hội bầu ra sẽ lãnh đạo Quốc tế. Quốc tế dựa vào tổ chức sẵn có của công nhân để lập thành những chi bộ. Những chi bộ trong từng nước hợp lại thành liên chi và có hội đồng liên chi lãnh đạo. Nhưng chi bộ vẫn có quyền tự trị trong hoạt động của mình, nhiệm vụ của các hội viên là phải cố gắng thống nhất các đoàn thể công nhân rời rạc ở nước mình thành những tổ chức có tính chất toàn quốc.

Việc thông qua bản Tuyên ngôn và điều lệ đánh dấu một bước thắng lợi đầu tiên của phong trào công nhân mà trong đó Mác đã góp phần cống hiến rất lớn lao. Tập hợp được mọi tổ chức của công nhân trong Quốc tế thứ nhất, Mác và Ăngghen còn không ngừng tiếp tục cuộc đấu tranh nhằm nâng cao trình độ giác ngộ của công nhân và đánh bại mọi học thuyết xã hội chủ nghĩa phi vô sản khác.

Các chi bộ Quốc tế thứ nhất lần lượt được thành lập ở Anh, Pháp, Thụy Sĩ, Bỉ, Mỹ… Riêng ở Đức và một số nơi khác, chế độ cảnh sát khắc nghiệt không cho phép thành lập chi bộ khiến cho các nhà hoạt động ở đó phải liên hệ trực tiếp từng người với Ban chấp hành trung ương. Đến cuối mùa hè năm 1865, các chi bộ Quốc tế đã được thành lập ở hầu khắp các nước lớn ở châu Âu và Bắc Mỹ.

III – Quá trình hoạt động và đấu tranh của quốc tế thứ nhất

1. Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa Pruđông

Năm 1865, các chi bộ Quốc tế đã được thành lập nhưng chưa mạnh, nên chưa đủ điều kiện để triệu tập Đại hội theo đúng quy định. Tháng 9, Mác tổ chức một hội nghị ở Luân Đôn có các ủy viên trung ương và cán bộ lãnh đạo các chi bộ tham dự. Hội nghị đã nghe báo cáo của Ban chấp hành trung ương, chuẩn y quyết toán tài chính và thông qua chương trình nghị sự cho Đại hội sắp tới. Vấn đề gay gắt nhất xoay quanh đề nghị của Mác ghi vào chương trình yêu sách đòi độc lập của Ba Lan. Phái Pruđông cho rằng đó là vấn đề thuần túy chính trị, không nên ghi vào chương trình đại hội của công nhân. Khước từ yêu sách đó, về thực tế, phái Pruđông đã ủng hộ chính sách của chính phủ phản động Anh và Pháp đối với Ba Lan và coi thường các phong trào giải phóng dân tộc.

Cuộc đấu tranh chống phái Pruđông trong Quốc tế I bắt đầu từ đó và kéo dài suốt ba cuộc đại hội từ 1866 đến 1868. Thực chất của phái Pruđông là bảo vệ và ủng hộ chủ nghĩa tư bản, chỉ muốn quét khỏi chế độ đó những cái “không tốt”, xây dựng cái “tốt” nhằm duy trì vĩnh viễn chế độ tiểu tư hữu. Vì vậy, phái Pruđông chủ trương giải quyết những vấn đề xã hội theo con đường hòa bình dựa vào những biện pháp kinh tế thuần túy trong phạm vi sản xuất, hợp tác xã và trao đổi nhỏ, phủ nhận đấu tranh chính trị và mọi hình thái nhà nước, kể cả chuyên chính vô sản. Học thuyết Pruđông có ảnh hưởng nhiều ở Pháp, Bỉ, Ý… là nơi nền tiểu sản xuất còn chiếm ưu thế. Đấu tranh loại trừ ảnh hưởng của chủ nghĩa Pruđông là yêu cầu cấp thiết nhằm nâng cao ý thức giác ngộ và khả năng tổ chức của giai cấp công nhân.

Đại hội lần I họp ở Giơnevơ từ ngày 3 đến ngày 8-9-1866, có 60 người đại diện cho 25 chi bộ.

Về vấn đề kinh tế – xã hội, phái Pruđông phản đối yêu sách của công nhân đòi ngày làm 8 giờ và hạn chế ngày lao động trẻ em vì họ cho rằng đó là quan hệ riêng tư đã được thỏa thuận trong những hợp đồng giữa chủ và thợ. Họ phản đối yêu sách đòi bảo vệ lao động của phụ nữ vì cho rằng chức năng phụ nữ chỉ là trông nom bếp núc, nhà cửa mà thôi. Những người mácxít đã thông qua nghị quyết đòi bắt buộc phải hạn chế ngày lao động đối với công nhân, nhất là đối với trẻ em, về chế độ làm đêm của phụ nữ, đòi phải giáo dục phổ thông và nghề nghiệp cho công nhân, bảo vệ lao động của phụ nữ; xóa bỏ các thứ thuế gián tiếp, đòi vũ trang toàn dân.

Về vấn đề công đoàn, Đại hội kiên quyết chống lại những luận điệu của phái Pruđông chủ trương bãi bỏ mọi hình thức tổ chức của công nhân và thông qua nghị quyết nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của công đoàn. Nghị quyết nhấn mạnh rằng công đoàn trở thành cần thiết cho cuộc đấu tranh giữa tư bản và lao động, và có vai trò hết sức quan trọng với tư cách là một đoàn thể có tổ chức để đẩy mạnh việc thủ tiêu chế độ lao động làm thuê. Việc thông qua nghị quyết về công đoàn là một thắng lợi lớn của những người mácxít không những đối với phái Pruđông mà cả với phái Látxan ở Đức và bọn lãnh tụ công đoàn ở Anh.

Trong nghị quyết về vấn đề hợp tác xã, Mác đã nêu rõ rằng tổ chức lao động có tính chất xã hội chủ nghĩa là có thể thực hiện được. Nhằm chống lại quan niệm mơ hồ coi hợp tác xã là con đường duy nhất giải phóng lao động, nghị quyết viết, nếu giai cấp vô sản không nắm được quyền lực chính trị thì hình thức hợp tác xã không thể cải biến được chế độ tư bản chủ nghĩa.

Đại hội đã thông qua bản Tuyên ngôn thành lập và Điều lệ, đập tan âm mưu của phái Pruđông định loại Mác ra khỏi Ban lãnh đạo của Quốc tế, Ban chấp hành Trung ương được bầu lại với thành phần như cũ.

Sau đại hội, phong trào bãi công lan tràn khắp các nước do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1866. Mùa xuân năm đó, công nhân cảng ở Luân Đôn và Êđinbua bãi công. Tiếp theo, công nhân Đức, Bỉ, Thụy Sĩ và đến tháng 2-1867 công nhân Pháp cũng tiến hành bãi công. Theo đề nghị của Mác, Quốc tế đã ủng hộ các cuộc đấu tranh trên bằng cách quyên tiền, thông báo tin tức, hưởng ứng lẫn nhaụ… Đồng thời trong cuộc đấu tranh chính trị, công nhân đã giành được một số thắng lợi. Năm 1867, công nhân miền Bắc Đức tham gia bầu cử và đưa vào quốc hội những đại diện của mình là Vinhem Liepnếch và Aoguxtơ Bêben. Cùng năm đó, chính phủ Anh ban hành luật cải cách tuyển cử cho một bộ phận công nhân lớp trên tham gia. Những hoạt động đó đã tăng cường sự đoàn kết quốc tế của công nhân và nâng cao uy tín của Quốc tế I.

Đại hội lần II họp ở Lôdan (Thụy Sĩ) từ ngày 2 đến ngày 8 tháng 9 năm 1867, có 63 đại biểu.

Phái Pruđông có người Pháp và Thụy Sỹ chiếm đa số trong Đại hội buộc Đại hội trở lại các vấn đề lao động của phụ nữ và trẻ em, vấn đề hợp tác xã, đã thảo luận lần trước. Họ làm cho Đại hội thông qua một vài nghị quyết mơ hồ, song không thể nào giành được thắng lợi trong việc chiếm quyền lãnh đạo Quốc tế, Ban chấp hành vẫn được bầu với thành phần như cũ và trụ sở vẫn đặt ở Luân Đôn.

Đại hội đã thông qua một nghị quyết về việc quốc hữu hóa các phương tiện giao thông vận tải, xác định quyền sở hữu tập thể đối với tư liệu sản xuất. Nhưng về vấn đề quốc hữu hóa ruộng đất, Đại hội gặp phải sự chống đối kịch liệt của phái Pruđông và phải gác lại kỳ họp sau.

Một nghị quyết quan trọng khác của Đại hội là xác định việc giải phóng công nhân về mặt xã hội sẽ không thực hiện được nếu không giải phóng về chính trị, cho nên việc thiết lập quyền tự do về chính trị được coi như một bước khởi đầu là tuyệt đối cần thiết.

Đại hội lần III họp ở Bruyxen từ ngày 6 đến 13-9-1868 có gần một trăm đại biểu tham gia. Chương trình nghị sự của phiên họp và báo cáo hàng năm của Quốc tế được Mác chuẩn bị rất chu đáo. Cuộc đấu tranh gay gắt và phong trào bãi công lan rộng ở Pháp và Bỉ làm cho tinh thần quần chúng công nhân lên cao, loại trừ dần ảnh hưởng của phái Pruđông. Tình hình đó cũng được phản ánh vào Đại hội.

Đại hội thông qua nghị quyết xác nhận lại những vấn đề đã bàn trong Đại hội lần thứ nhất ở Giơnevơ; tán thành đấu tranh bãi công, thành lập các công đoàn và đòi ngày làm 8 giờ.

Cuộc thảo luận gay go nhất xoay quanh vấn đề quyền sở hữu ruộng đất. Đại hội đã thông qua với đa số tuyệt đối (130 phiếu thuận, 4 phiếu chống, 15 phiếu trắng) một quyết nghị quan trọng đòi chuyển ruộng đất, rừng, kênh đào, hầm mỏ và đường xe lửa, điện tín sang chế độ sở hữu tập thể. Nghị quyết đó đánh dấu sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội vô sản đối với luồng tư tưởng tiểu tư sản trong nội bộ Quốc tế. Tuy nhiên phái Pruđông vẫn ra sức chống đối khiến Đại hội quyết định lần sau sẽ thảo luận lại.

Đại hội Bruyxen họp giữa lúc tình hình châu Âu căng thẳng đang có nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh mới. Vì vậy, vấn đề thái độ đối với chiến tranh được đặt ra và cuối cùng đã thông qua một nghị quyết có tính chất ảo tưởng coi tổng bãi công như là phương pháp toàn năng có thể ngăn chặn nguy cơ chiến tranh. Từ Luân Đôn, Mác phê bình nghị quyết đó là những lời tuyên bố dài dòng và những câu nói khuếch đại vô giá trị. Trong hoàn cảnh giai cấp công nhân chưa đủ điều kiện để có ảnh hưởng quyết định đối với quá trình của các sự biến, Đại hội cần phải lên tiếng tố giác và phản đối bọn gây chiến.

Đại hội thông qua một nghị quyết kêu gọi công nhân các nước hãy chú ý đến tác phẩm “Tư bản” của Mác vừa mới xuất bản vào tháng 8-1867 và yêu cầu giúp đỡ để dịch tác phẩm đó ra các thứ tiếng.

Đại hội Bruyxen đã giành được thắng lợi căn bản với chủ nghĩa Pruđông, đập tan mọi hoạt động có tính chất cải lương tiểu tư sản trong Quốc tế. Hàng ngũ phái Pruđông bị phân hóa sâu sắc, cánh tả ngày càng đông đảo, đứng đầu là người theo chủ nghĩa tập thể như Vaclanh (Pháp) và Đơ Páp (Bỉ).

2. Cuộc đấu tranh chống phái cơ hội công đoàn Anh và phái Látxan ở Đức

Trong thời gian của ba đại hội đầu, bên cạnh cuộc đấu tranh chủ yếu chống chủ nghĩa Pruđông, những người mátxít còn phải tiến hành đấu tranh không khoan nhượng với bọn thủ lĩnh cơ hội của công đoàn Anh và phái Látxan ở Đức. Trong thời kỳ này, công nhân Anh ở vào trạng thái hoàn toàn khác với hồi phong trào Hiến chương của những năm 40 thế kỷ XIX. Đó là thời kỳ phồn thịnh của chủ nghĩa tư bản Anh, nên một số công nhân lành nghề được trả lương cao biến thành tầng lớp trên của giai cấp công nhân, được gọi là “công nhân quý tộc”. Vận mệnh của họ gắn bó với giai cấp tư sản nên họ đã mất đi phần lớn tinh thần cách mạng trước kia. Các lãnh tụ công nhân không muốn tiếp tục đưa phong trào quần chúng đi theo con đường cách mạng nữa. Năm 1866, các công đoàn Anh bước vào thời kỳ mà Ăngghen gọi là “giấc ngủ mùa đông dài 40 năm” của giai cấp vô sản. Khi đó các công đoàn chủ yếu là mang tính chất của tổ chức liên hợp giữa các nghề nghiệp trong phạm vi hẹp, ít đoàn kết với nhau, các hoạt động chỉ nhằm những mục tiêu kinh tế. Họ ít quan tâm đến đấu tranh chính trị, và nếu có chăng nữa như đấu tranh giành quyền bầu cử, chống lại một vài đạo luật đàn áp nào đó thì cũng chịu ảnh hưởng của các chính đảng tư sản và chỉ đem lại quyền lợi cho công nhân quý tộc. Về cơ bản, họ không vượt quá phạm vi giới hạn của chủ nghĩa tư bản. Những lãnh tụ công đoàn Anh chiếm vị trí quan trọng trong Quốc tế – J.Otgiơ là Chủ tịch và U.Crimerơ là Tổng bí thư – đã là chỗ dựa cho phái Pruđông hoành hành. Mác không ngừng đấu tranh gạt bỏ những khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa của lãnh tụ công đoàn Anh. Đến năm 1867, theo đề nghị của Mác, Ban chấp hành trung ương quyết định bỏ chức vụ Chủ tịch, J.Otgiơ phải rời bỏ địa vị đó sau ba năm nắm quyền.

Vấn đề đấu tranh quan trọng nhất là thái độ đối với phong trào giải phóng dân tộc Ailen. Trong khi nhìn thấy một số sai lầm của phong trào dân tộc tư sản Phênăng ở Ailen là phong trào đòi tách khỏi sự thống trị của Anh, Mác và Ăngghen kêu gọi công nhân Anh hãy cương quyết ủng hộ họ. Việc giải phóng Ailen khỏi nước Anh không những là điều quan trọng đối với nhân dân Ailen mà còn có tác dụng cách mạng hóa và là điều kiện đầu tiên giải phóng ngay bản thân giai cấp công nhân Anh. Điều đó sẽ nâng cao tinh thần quốc tế vô sản của công nhân, tẩy rửa ảnh hưởng chủ nghĩa sô-vanh và tiêu diệt nguồn bóc lột mà giai cấp tư sản dùng một phần để mua chuộc một bộ phận công nhân. Chừng nào mà Ailen chưa được giải phóng thì giai cấp công nhân Anh cũng chưa được giải phóng. Bọn thủ lĩnh cơ hội chủ nghĩa Anh đi theo chính sách phản động, biện hộ cho việc nô dịch. Mác đấu tranh không mệt mỏi chống lại, đề nghị Ban chấp hành lãnh đạo cuộc đấu tranh phản đối việc xử tử 4 người Phênăng (11-1867), đòi thông qua nghị quyết lên án chính sách xâm lược của chính phủ Anh và phát động một chiến dịch rộng rãi đòi ân xá các nhà cách mạng Ailen.

Quá trình đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội cũng diễn ra ở nước Đức. Chủ nghĩa Látxan có ảnh hưởng rộng rãi trong công nhân, đặc biệt là trong “Liên minh công nhân toàn Đức”. Phái Látxan nêu lên cái gọi là “luật sắt về tiền lương” để phủ nhận đấu tranh bãi công và đấu tranh kinh tế, phủ nhận tổ chức công đoàn. Mọi hoạt động của họ đều thu hẹp trong phạm vi giành quyền phổ thông đầu phiếu, lập hội sản xuất với sự giúp đỡ của nhà nước phản động Phổ. Họ phủ nhận khả năng liên minh công nông, coi các giai cấp khác ngoài công nhân đều là phản động nhưng lại chủ trương liên minh với tư sản và về thực tế đã câu kết với Bixmác, phản bội cuộc đấu tranh của quần chúng.

Trong những năm 60, phong trào công nhân Đức dần dần được phục hồi, cuộc đấu tranh chống ảnh hưởng tư sản lớn mạnh không ngừng. Được sự giúp đỡ của Mác, các nhà cách mạng Đức là Aoguxt. Bêben và Vinhem Liepnếch đã lãnh đạo quần chúng công nhân tẩy trừ ảnh hưởng của chủ nghĩa Látxan. Trong khi đại hội Bruyxen họp thì chủ nghĩa Mác giành được thắng lợi lớn trong phong trào công nhân Đức. Ngày 6-81868, đại hội Nuyarembe của các hội công nhân gồm có đại biểu của 14.000 công nhân tuyên bố đi theo cương lĩnh của Quốc tế. Năm sau, ngày 6-8-1869, Đảng Công nhân xã hội dân chủ Đức được thành lập ở Aidơnăc mở ra một giai đoạn đấu tranh mới của công nhân Đức.

3. Cuộc đấu tranh chống phái Bacunin

Mikhain Bacunin (1814-1876) xuất thân từ gia đình quý tộc và đã từng là sĩ quan hoàng gia, là một nhà cách mạng người Nga lưu vong ra nước ngoài, đã tham gia nhiều phong trào ở Tây Âu trong những năm 40. Tháng 5-1849 Bacunin bị bắt ở Dretxđen (Đức) và bị trao cho hiến binh Nga. Trong nhà tù, Bacunin viết “lời thú tội” gửi lên Nga hoàng để xin ân xá. Ông ta bị đày đi Xibêri rồi trốn sang Nhật, sang Mỹ, đến mùa thu năm 1864 xuất hiện ở Luân Đôn và cuối cùng về Ý. Bacunin lại hoạt động trong phong trào công nhân, trở thành một trong những kẻ đề xướng ra chủ nghĩa vô chính phủ.

Chủ nghĩa Bacunin phản ánh ý thức hệ phiến loạn của người tiểu tư sản bị phá sản không còn hy vọng nào có thể cứu vãn được nữa. Nó biểu lộ tâm trạng bất mãn tuyệt vọng của tầng lớp thợ thủ công, tiểu tư sản thành thị và của nông dân đã bị phá sản, rơi vào hàng ngũ vô sản. Nó lên án tất cả mọi chính phủ, coi chính phủ và tôn giáo là nguồn gốc mọi sự đau khổ của loài người, vì vậy, nó gần gũi với chủ nghĩa Pruđông ở chỗ cùng đi theo con đường vô chính phủ, nhưng nếu Pruđông dùng những lời lẽ cải lương, thì Bacunin lại làm ra vẻ hùng hổ cách mạng để che đậy bản chất. Bacunin đòi xóa bỏ mọi hình thức chính quyền, kể cả chuyên chính vô sản bằng những cuộc bạo động có tính chất âm mưu, khước từ mọi hoạt động chính trị của giai cấp công nhân. Ý chủ trương thực hiện nguyên tắc cá nhân ngự trị hoàn toàn với khẩu hiệu “Tất cả vì cá nhân”, cho rằng giải phóng cá nhân là điều kiện chủ yếu để giải phóng quần chúng. Bacunin coi việc xóa bỏ quyền thừa kế là biện pháp thủ tiêu chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa Bacunin được truyền bá rộng rãi ở Ý, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ và miền Nam nước Pháp là những nơi nền công nghiệp đang phát triển, chế độ tiểu tư hữu chiếm ưu thế, quan hệ nửa phong kiến còn tồn tại, tầng lớp tiểu tư sản còn đông đảo.

Chú nghĩa Bacunin hoàn toàn xa lạ và đối lập với chủ nghĩa Mác.

Trong khi những người mác-xít đấu tranh để xây dựng nền chuyên chính vô sản thì Bacunin phất lên ngọn cờ vô chính phủ. Tong khi giai cấp vô sản đấu tranh để thủ tiêu các giai cấp bóc lột thì Bacunin đưa ra khẩu hiệu “bình đẳng giữa các giai cấp”. Chủ nghĩa Mác nhìn nhận giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự tất yếu phải thiết lập chính đảng, thì chủ nghĩa Bacunin lại đi tìm lực lượng trong những phần tử lưu manh, côn đồ…

Mùa thu năm 1864, Bacunin gặp Mác ở Luân Đôn và hứa hẹn sẽ thành lập chi bộ Quốc tế ở Ý. Nhưng Bacunin không chịu chấp hành những nguyên tắc của Quốc tế mà lại dùng nhiều thủ đoạn về mặt tổ chức để chống phá Quốc tế.

Đại hội lần IV của Quốc tế I họp ở Balơ từ ngày 6 đến 11-9-1869 có 78 đại biểu của Anh, Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha. Lấn đầu tiên có một đại biểu công nhân Mỹ.

Theo yêu cầu của một nhóm nhỏ phái Pruđông, Đại hội thảo luận lại vấn đề sở hữu ruộng đất. Đại hội đã phê chuẩn nghị quyết của đại hội Bruyxen về sự cần thiết hủy bỏ chế độ tư hữu ruộng đất. Đại hội cũng thông qua nghị quyết kêu gọi công nhân khắp nơi tổ chức các công đoàn, tập hợp trên phạm vi toàn quốc và hướng quần chúng vào cuộc đấu tranh chống chế độ làm thuê. Ban chấp hành trung ương của Quốc tế có nhiệm vụ liên hệ giữa các công đoàn các nước với nhau. Đại hội đã tiến hành tranh luận gay gắt giữa người macxít với phái Bacunin xoay quanh vấn đề quyền kế thừa tài sản. Bacunin coi việc xóa bỏ quyền thừa kế bằng pháp luật trong phạm vi xã hội tư bản là biện pháp để dần dần chuyển ruộng đất sang chế độ sở hữu tập thể. Mác kịch liệt phê phán luận điểm không tưởng và cải lương đó, vạch ra rằng điều đó không thể thực hiện được khi mà bọn tư bản và địa chủ còn nắm chính quyền. Bị những thủ đoạn của Bacunin đánh lạc hướng, Đại hội đi đến một quyết nghị với đa số phiếu nghiêng về phái vô chính phủ. Đến khi thông qua nghị quyết về tổ chức, phái Bacunin đã hoàn toàn thất bại trong âm mưu định chui vào ban lãnh đạo để lũng đoạn Quốc tế.

Đến năm 1870, tình hình quốc tế có nhiều chuyển biến, cuộc chiến tranh Pháp-Phổ bùng nổ khiến cho đại hội Quốc tế lần thứ năm định họp vào tháng 9 năm 1870 không thể tiến hành được. Với tư cách của Ban chấp hành trung ương Quốc tế I, Mác ra hai bản hiệu triệu chỉ rõ tính chất của cuộc chiến tranh và kêu gọi sự đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân Pháp-Phổ.

Xem: Công xã Pari 1871

IV – Quốc tế I sau khi Công xã Pari thất bại

1. Bảo vệ sự nghiệp của Công xã

Những hoạt động của Quốc tế I đã đóng vai trò quan trọng đối với sự ra đời của Công xã Pari. Có thể nói rằng Công xã Pari là con đẻ tinh thần của Quốc tế I.

Sau khi Công xã thất bại, Mác vẫn luôn luôn bảo vệ sự nghiệp của Công xã. Ngày 30-51871, 2 ngày sau khi Công xã thất bại, Mác đã đọc “Lời kêu gọi của Tổng hội Liên hiệp lao động quốc tế về nội chiến ở Pháp năm 1871” trước Ban chấp hành trung ương Quốc tế do Mác thảo ra. Trong lời kêu gọi ấy, Mác đã phân tích hoạt động của Công xã và nêu rõ ý nghĩa lịch sử quốc tế của nó.

Giai cấp tư sản các nước ra mặt khủng bố các phân bộ quốc tế. Khắp nơi, bọn phản động rất căm tức trước thái độ của Mác, chúng đàn áp, truy tố, lùng bắt các hội viên Quốc tế và Mác. Chúng dùng mọi thủ đoạn để đàn áp công nhân và cấm các phân bộ của Quốc tế hoạt động.

2. Hội nghị Luân Đôn (17 đến 23-9-1871). Đại hội La Hay (2-9-1872)

Vì sự đàn áp của giai cấp tư sản phản động các nước nên Quốc tế I không thể triệu tập đại hội. Quốc tế I đã họp hội nghị ở Luân Đôn từ 17 đến 23-9-1871 để thảo luận những vấn đề về hoạt động của Quốc tế và đề ra những nhiệm vụ trước mắt của phong trào công nhân quốc tế. Xuất phát từ kinh nghiệm của Công xã Pari, Hội nghị đã thông qua một nghị quyết quan trọng về việc thành lập những chính đảng độc lập của giai cấp vô sản ở tất cả các nước.

Bọn vô chính phủ chống lại nghị quyết và từ chối không thực hiện. Tháng 11-1871, chúng nhóm họp riêng ở Xônviê tại Thụy Sĩ. Tham gia cuộc “Đại hội” này chỉ có vẻn vẹn 16 đại biểu. Chúng tuyên bố chống chuyên chính vô sản, chống đấu tranh chính trị của giai cấp công nhân, đối lập với mọi sự lãnh đạo chung của phong trào công nhân quốc tế. Bọn vô chính phủ đòi triệu tập ngay đại hội Quốc tế. Chúng đã gây tác hại nghiêm trọng cho toàn bộ hoạt động của Quốc tế.

Đại hội lần thứ 5 của Quốc tế họp ở La Hay ngày 2-9-1872 là đại hội cuối cùng của Quốc tế. Mác và Ăngghen đều đến tham dự. Đại hội đã khai trừ Bacunin và đồ đệ của y về tội phản bội ra khỏi Quốc tế. Đại hội xác nhận nghị quyết của Hội nghị Luân Đôn và một lần nữa nhắc nhở giai cấp vô sản các nước những bài học của Công xã Pari, đặc biệt là việc cần phải thành lập những chính đảng vô sản trong tất cả các nước. Đại hội chỉ rõ rằng phong trào đấu tranh kinh tế và hoạt động chính trị liên quan chặt chẽ với nhau. Đại hội quyết định dời trụ sở Tổng hội sang Mỹ vì không khí phản động ngày càng trở nên nặng nề làm cho Quốc tế hầu như không thể tiếp tục hoạt động ở châu Âu được nữa.

Hội nghị cuối cùng của Quốc tế đã họp ở Philađenphia ngày 15-71876, chính thức tuyên bố giải tán Quốc tế.

Như vậy, Quốc tế thứ nhất đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử là làm cho tư tưởng của chủ nghĩa Mác lan tới những công nhân tiên tiến của các nước tư bản chủ nghĩa quan trọng nhất và chuẩn bị cơ sở cho sự thành lập các chính đảng công nhân độc lập ở châu Âu và châu Mỹ.

3. Ý nghĩa lịch sử của Quốc tế thứ nhất

Ý nghĩa lịch sử của Quốc tế thứ nhất vô cùng to lớn. Đó là tổ chức quốc tế đầu tiên của công nhân được thành lập theo những nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Quốc tế xây dựng trên cơ sở dân chủ tập trung. Nó đã dạy công nhân phải kết hợp đấu tranh kinh tế với đấu tranh chính trị, đặt cơ sở cho cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội của giai cấp vô sản quốc tế.

Trong cuộc đấu tranh với các thủ lĩnh công đoàn Anh, phái Pruđông Pháp, phái Látxan ở Đức và bọn vô chính phủ, Quốc tế đã khởi thảo những vấn đề cương lĩnh thuộc về chiến lược và sách lược của chính đảng vô sản. Quốc tế đã góp phần làm cho phong trào công nhân chuyển lên một bước mới, tiến tới những tổ chức công nhân có tính chất quần chúng.

Trong hàng ngũ Quốc tế, nhiều cán bộ đã được bồi dưỡng và lớn mạnh dưới sự lãnh đạo của Mác-Ăngghen, chính họ trở thành những người tổ chức và lãnh đạo những đảng vô sản đầu tiên của phong trào công nhân quốc tế.

Do kết quả đấu tranh của Quốc tế thứ nhất, chủ nghĩa xã hội trước Mác đã bị phê phán và cuộc đấu tranh ấy đã dọn đường cho việc thành lập những chính đảng công nhân trên cơ sở lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học. Nó làm cho chủ nghĩa Mác giành được thắng lợi và ngày càng được truyền bá rộng rãi trong phong trào cách mạng của giai cấp vô sản.

Xem thêm: Quốc tế II

Nguồn: Lịch sử thế giới cận đại, Vũ Dương Ninh – Nguyễn Văn Hồng, Nhà xuất bản Giáo dục

Rate this post

Leave A Reply

Your email address will not be published.