Tín dụng là gì? Bản chất, chức năng và Phân loại

0

1. Khái niệm tín dụng

Tín dụng xuất phát là chữ La-tinh: Creditium có thể hiểu là sự tin tưởng, là sự nuôi dưỡng lòng tin, là sự hẹn trả.

Hiểu theo nghĩa rộng, tín dụng là một quan hệ xã hội, quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa chủ thể kinh tế này với chủ thể kinh tế khác trên nguyên tắc có hoàn trả.

Nói cách khác, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị nhất định dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ trong một thời hạn nhất định từ người cho vay (người sở hữu) sang người đi vay (người sử dụng) và khi đến hạn phải hoàn trả lại với một lượng giá trị lớn hơn cái ban đầu, khoản giá trị dôi ra này được gọi là lợi tức tín dụng.

Theo quan điểm của Karl Marx: Tín dụng là sự vận động của từ bản cho vay T-T’.

Quan hệ tín dụng đã xuất hiện cùng với sự xuất hiện của chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản suất. Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển ở mức độ nhất định, các chủ thể kinh tế luôn phát sinh nhu cầu về vốn nên đã nẩy sinh quan hệ vay nợ lẫn nhau.

Trong thực tế hoạt động tín dụng rất phong phú và đa dạng, nhưng dù ở bất cứ dưới hình thức nào tín dụng cũng luôn là một quan hệ kinh tế của nền sản xuất hàng hóa, nó tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của những quan hệ hàng hóa – tiền tệ.

Mục đích và tính chất của tín dụng do mục đích và tính chất của nền sản xuất hàng hóa trong xã hội quyết định. Sự vận động của tín dụng luôn luôn chịu sự chi phối và tác động của các quy luật kinh tế của phương thức sản xuất trong xã hội đó.

Sự tồn tại khách quan của tín dụng.

Trong nền kinh tế hàng hóa – tiền tộ, mọi vận hành kinh tế đều được tiên tệ hóa. Do vậy, mỗi chủ thể của nền kinh tế đầu phải từ tìm kiếm nguồn vốn trên thị trường nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình và tự chủ trong việc sử dụng nguồn vốn,

Tuy nhiên, không phải lúc nào nhu cầu về vốn cũng được đáp ứng đầy đủ. Sự không ăn khớp giữa nguồn vốn và sử dụng vốn của mỗi chủ thể của nền kinh tế đã dẫn tới tình trạng thừa hoặc thiếu vốn. Sự thừa thiếu này có khi tạm thời, có khi lâu dài; nơi thừa vốn thì tìm cách sử dụng nguồn dư thừa của mình sao cho có lợi nhất, còn nơi thiếu vốn thì tìm cách sao cho bù đắp được sự thiếu hụt của mình với chi phí thấp nhất. Điều này có nghĩa là nhu cầu giao lưu vốn đã xuất hiện, nhu cầu này bắt nguồn từ hai phía: Phía những người thiếu vốn và phía những người dư thừa vốn.

Chủ thể thiếu vốn: Những người có nhu cầu về vốn cần để đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và phục vụ cho đời sống.

– Người cần vốn đầu tiên là doanh nghiệp, công ty, tổ chức kinh tế. Bởi vì, muốn kinh doanh công nghiệp hoặc thương nghiệp hay bất kỳ một ngành nghề nào cũng cần có vốn, cần vốn để mua, để thuê cửa hàng, nhà máy, trang thiết bị, vốn cần để mua hàng hóa, nguyên vật liệu và cũng cần vốn để trả tiền lương cho người lao động và các khoản chi cần thiết khác.

Trong kinh doanh, vốn tự có thường không đủ thỏa mãn cho các chủ thể kinh tế. Mặt khác, do đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh được vận động liên tục qua các giai đoạn của quá trình tái sản xuất. Tuy nhiên, sự vận động của vốn tiền tệ lại tùy thuộc vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. Do đó, nếu hành vi mua và bán không khớp với nhau về thời gian và số lượng thì sẽ nảy sinh nhu cầu thiếu hụt tạm thời về vốn cần được bổ sung ngay để quá trình sản xuất kinh doanh tiến hành liên tục.

– Cá nhân, hộ gia đình, nhiều khi cũng cần tiền để mua nhà, xe hơi, các trang thiết bị hoặc cần tiền để trang trải khi ốm đau, bệnh Một hay lo cho tương lai của con em trong học tập, lập nghiệp. lập gia thất.. Các khoản chi lớn, bất thường này vượt quá số tiến hiện có trong tay.

– Nhà nước trung ương và chính quyền địa phương cùng cần chỉ trả những khoản tiền lớn cho việc xây dựng cầu đường, trường học. bệnh viên, trợ cấp y tế, hoặc chi tiêu để khắc phục các thiệt hại do thiên tai gây ra. Bố thu trong năm tài chính thường không đủ để trang trải các khoản chi tiêu, nên ngân sách Nhà nước đối lúc thường bị thiếu hụt nhất thời.

Như vậy, doanh nghiệp, công ty, tổ chức kinh tế, gia đình và Nhà nước khi thiếu tiền, cũng cần phải đi vay. Nghĩa là, các chủ thể này đều có nhu cầu vốn.

Chủ thể dư vốn: Trong xã hội, xét trong một thời gian nhất định nào đó bên cạnh những người cần vốn cũng có những người dư thừa hoặc tạm thời nhàn rỗi và quan tâm đến khả năng sinh lợi của đồng tiền.

– Doanh nghiệp: Trong quá trình sản xuất, kinh doanh doanh nghiệp thường có các khoản vốn tích luỹ từ khoản khấu hao nhà xưởng, trang thiết bị hay các khoản vốn dùng cho việc mở rộng công việc kinh doanh, nhưng chưa phải dùng tới.

– Cá nhân, hộ gia đình: Trong đời sống hàng ngày họ có những khoản tiền để dành từ tiền lương hàng tháng hay từ những khoản thu nhập bất thường như tiền thưởng, tiền trúng số. chưa có dự định chi tiêu.

– Nhà nước trung ương và chính quyền địa phương cũng có lúc dư thừa nhất thời nên có được những khoản kết dự ngân sách

Nhà nước. Như vậy, doanh nghiệp, công ty, tổ chức kinh tế, gia đình và Nhà nước cũng là những người có thể cung cấp vốn.

Từ sự phân tích trên, ta thấy: Trong xã hội xét tại một thời điểm bất kỳ nào đó luôn luôn xảy ra hiện tượng có những người có vốn tiền tệ dư thừa hay tạm thời nhàn rỗi, cùng một lúc lại cũng có những người tạm thời thiếu hụt về vốn tiền tệ cần được bổ sung. Hiện tượng này đòi hỏi phải xuất hiện quá trình điều hòa cung cấu vốn, vốn phải “chảy” từ nơi dư thừa vốn sang nơi dạng thiếu hụt.

Trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện hai nhóm đối lập nhau: nhóm những chủ thể cần vốn và nhóm những chủ thể có vốn cung ứng. Vấn để quan trọng là họ phải gặp nhau và thỏa mãn yêu cầu của nhau. Sự việc không hề đơn giản, vì trong nền kinh tế xã hội với lượng dân cư đông đúc, phân tán và đan xen lẫn nhau, không dễ gì biết được chủ thể nào có vốn và chủ thể nào cần vốn. Bởi vậy, vấn đề tin cậy lẫn nhau được coi là tiền đề cho quá trình chuyển nhượng vốn. Quá trình này chỉ có thể xảy ra khi chủ thể cần vốn thực sự tạo ra được niềm tin cho chủ thể cung cấp vốn thật sự yên tâm và tin cậy khi giao vốn cho bên sử dụng. Qua đó chúng ta đi đến khẳng định sự tồn tại và phát triển của tín dụng trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan.

2. Sự phát triển của tín dụng

Sự vận động của tín dụng luôn luôn chịu sự chi phối và tác động của các quy luật kinh tế của phương thức sản xuất trong xã hội đó. Tín dụng luôn phát triển và hoàn thiện cho phù hợp với nền kinh tế thị trường.

2.1. Tín dụng trong các phương thức sản xuất trước Chủ nghĩa Tư bản

Trong các phương thức sản xuất chiếm hữu nô nệ và phong kiến, tín dụng đã xuất hiện dưới hình thức cho vay nặng lãi, tín dụng nặng lãi ra đời trong điều kiện sản xuất thấp kém, phụ thuộc nhiều vào điều kiện thiên nhiên, lại thêm gánh nặng sưu thuế và các tệ nạn xã hội khác. Những người sản xuất nhỏ thường xuyên phải đối phó với những rủi ro xảy ra trong cuộc sống bắt buộc phải đi vay để giải quyết những khó khăn cấp bách trong đời sống, chẳng hạn như: mua lương thực, thuốc chữa bệnh, đóng tô, nộp thuế. Còn các tầng lớp thuộc giai cấp hữu sản như chủ nô, lãnh chúa cũng cần vốn để giải quyết những thiếu hụt tạm thời với các nhu cầu cao hơn như: xây lâu đài, củng cố địa vị, chạy đua vũ trang để thôn tính các nước láng giềng, nên cũng phải đi vay.

Các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng nặng lãi bao gồm có các thành viên sau đây:

Người đi vay: Là những người cần vốn, những người thiếu vốn để kinh doanh hoặc để tiêu dùng, họ chủ yếu là nông dân và thợ thủ công, ngoài ra còn có một số chủ nợ, địa chủ và các quan lại cũng di vay nặng lãi.

Người cho vay: Là những người thừa vốn và luôn quan tâm đến khả năng sinh lời của vốn, họ là những người kinh doanh công thương nghiệp, kinh doanh tiền tệ, chủ nợ, địa chủ và các quan lại phong kiến.

Tín dụng nặng lãi là hình thức tín dụng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng là chính và có những đặc điểm sau đây:

– Lãi suất quá cao: Người đi vay phải trả lãi suất rất cao và nếu không trả được nợ sẽ bị tịch thu phương tiện sản xuất hoặc bị trói buộc, lệ thuộc vào địa chủ hay các lãnh chúa phong kiến.

Lịch sử đã thống kê cho thấy:

Trong thời kỳ cổ đại La Mã, lãi suất mà con nợ phải thanh toán cho chủ nợ khoảng 40% – 100% một năm. Trong thời kỳ phong kiến ở Đức lãi suất từ 21% – 43% một năm và trong nhiều trường hợp lãi suất lên đến trên 100% một năm.

Sở dĩ lãi suất cao là do nhu cầu tín dụng quá lớn so với cung ứng tín dụng và nhu cầu đi vay thường là quá cấp bách không thể trì hoãn được.

Tín dụng nặng lãi có những đặc điểm sau:

– Là tín dụng phi sản xuất: Tín dụng nặng lãi là tín dụng phi sản xuất vì phần lớn người đi vay sử dụng vốn nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của mình chứ không sử dụng phục vụ cho sản xuất, kinh doanh.

Nếu người đi vay muốn sử dụng vốn để đầu tư cho sản xuất, kinh doanh cũng không thể đầu tư nổi vì lãi suất phải trả, lãi suất cao tới mức có thể ăn thêm vào phần vốn tự có.

– Hình thức vận động của vốn: Trong quan hệ tín dụng nặng lãi vốn được vận động biểu hiện rất đa dạng, chẳng hạn:

+ Cho vay bằng hiện vật, thu nợ bằng hiện vật.

+ Cho vay bằng tiền, thu nợ bằng tiền.

+ Cho vay bằng tiền, thu nợ bằng hiện vật.

+ Cho vay bằng hiện vật hoặc bằng tiền, trả nợ bằng ngày công lao động.

2.2. Tín dụng trong nền kinh tế thị trường

Khi Chủ nghĩa Tư bản hình thành và phát triển ở một số nước, nhu cầu vốn của nền kinh tế đòi hỏi phải có một lượng rất lớn để phục vụ nền kinh tế phát triển với lãi suất hợp lý để có lợi cho cả người đi vay và người cho vay.

Đến giai đoạn này, tín dụng nặng lãi đã trở thành chướng ngại trên con đường phát triển của chủ nghĩa tư bản, vì lãi suất quá cao không phù hợp với nền kinh tế thị trường.

Tín dụng Tư bản Chủ nghĩa ra đời đã đẩy lùi tín dụng nặng lãi và làm chỗ dựa về vốn cho sự phát triển kinh tế Tư bản Chủ nghĩa.

Tuy nhiên, tín dụng nặng lãi không bị thủ tiêu hoàn toàn mà nó vẫn tồn tại ở hàng thứ yếu và vẫn còn duy trì trong xã hội khi người đi vay không vì mục đích sản xuất, mà nhằm để duy trì nhu cầu sinh hoạt dưới nhiều nhu cầu và giác độ khác nhau.

3. Bản chất và các chức năng của tín dụng

3.1. Bản chất của tín dụng

Tín dụng là quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có mối liên hệ với nhau thông qua vận động giá trị vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc hàng hóa.

Quá trình vận động của vốn tín dụng có thể được khái quát qua ba giai đoạn sau:

Giai đoạn phân phối vốn tín dụng: Giai đoạn này còn gọi là giai đoạn cho vay, ở giai đoạn này vốn tiền tệ hoặc giá trị vật từ hàng hóa được chuyển từ chủ thể cho vay sang chủ thể đi vay. Như vậy, khi cho vay giá trị vốn tín dụng được chuyển sang chủ thể sử dụng vốn, đây là đặc điểm cơ bản khác với việc mua bán hàng hóa thông thường.

Giai đoạn phân phối vốn được mô tả như sau:

– Giai đoạn sử dụng vốn tín dụng: Ở giai đoạn này vốn tiền tệ hoặc giá trị vật tư hàng hóa được vận động trong chính tay người đi vay.

Trong quá trình tái sản xuất, sau khi nhận được giá trị vốn tín dụng, chủ thể đi vay được quyền sử dụng giá trị đó để thỏa mãn một mục đích nhất định. Ở giai đoạn này, vốn vay được sử dụng trực tiếp nếu vay bằng hàng hóa; hoặc vốn vay được sử dụng để mua hàng hóa nếu vay bằng tiền để thỏa mãn nhu cầu sản xuất kinh doanh dịch vụ hoặc tiêu dùng của người đi vay. Tuy nhiên, chủ thể đi vay không có quyền sở hữu giá trị đó, mà chỉ được quyền sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định.

– Giai đoạn hoàn trả vốn tín dụng: Đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của vốn tín dụng. Sau khi vốn tín dụng đã hoàn thành một chu kỳ sản xuất để trở về hình thái tiền tệ thì vốn tín dụng được chủ thể đi vay hoàn trả lại cho chủ thể cho vay.

Như vậy, sự hoàn trả của tín dụng là đặc trưng thuộc về bản chất vận động của tín dụng và là đặc điểm để phân biệt quan hệ tín dụng với quan hệ kinh tế khác, như quan hệ tài chính, quan hệ cho mượn. Mặt khác, sự hoàn trả của tín dụng là quá trình quay trở về của giá trị, hình thái vật chất của sự hoàn trả là vận động dưới hình thái giá trị.

Tuy nhiên, sự vận động đó không phải với tư cách là phương tiện lưu thông, mà với tư cách là phương tiện thanh toán cho một lượng giá trị được vận động, chính vì thế mà sự hoàn trả luôn luôn phải được bảo tồn về mặt giá trị và có phần tăng thêm so với cái ban đầu dưới hình thức lợi tức.

Giai đoạn hoàn trả tín dụng được mô tả qua sơ đồ sau:

Các nhà nghiên cứu về tín dụng và lãi suất tín dụng rút ra bản chất của tín dụng như sau:

Tín dụng là hình thức vận động của vốn tiền tệ trong xã hội theo nguyên tắc: tin tưởng, có hoàn trả và có lợi cho cả hai phía, bởi vậy việc hoàn trả tín dụng phải bao gồm nợ gốc và nợ lãi là một diều tất yếu, việc hoàn trả này phải đúng thời hạn đã cam kết.

Vì vậy, Karl Marx cho rằng: Tín dụng là sự vận động của tư bản cho vay T – T’.

3.2. Chức năng của tín dụng

– Chức năng tập trung và phân phối lại vốn theo nguyên tắc có hoàn trả.

Tín dụng thu hút đại bộ phận tiền tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế và phân phối lại vốn đó dưới hình thức cho vay để bổ sung vốn cho doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu về vốn nhằm phục vụ cho sẵn xuất, kinh doanh dịch vụ và tiêu dùng, vốn tín dụng là một bộ phận quan trọng trong nguồn vốn lưu động của các doanh nghiệp. Ngoài ra, vốn tín dụng còn là nguồn vốn đầu tư quan trọng trong lĩnh vực đấu tư cho tài sản cố định của doanh nghiệp.

Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, phân phối lại vốn tiền tệ dưới hình thức tín dụng được thực hiện bằng hai cách: Phân phối trực tiếp và phân phối gián tiếp.

Phân phối trực tiếp là việc phân phối vốn từ chủ thể có vốn tạm thời chưa sử dụng sang chủ thể trực tiếp sử dụng vốn đó cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Phương pháp phân phối này được thực hiện trong quan hệ tín dụng thương mại và việc phát hành trái phiếu của các công ty.

Phân phối gián tiếp là việc phân phối vốn được thực hiện thông qua các tổ chức tài chính trung gian như: Ngân hàng thương mại, hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính.

– Chức năng tiết kiệm tiền mặt.

Lúc đầu, tiền tệ lưu thông là tiền đúc đủ giá, nhưng khi nền kinh tế phát triển, đã làm xuất hiện việc lưu thông các dấu hiệu giá trị để thay thế cho tiến đúc đủ giá.

Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng ngày càng mở rộng và phát triển đa dạng, từ đó nó đã thúc đẩy việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán bù trừ giữa các tổ chức kinh tế. Điều này sẽ làm giảm được khối lượng tiền mặt trong hai thông giảm được chi phí lưu thông tiền mặt, đồng thời cho phép Nhà nước điều tiết một cách linh hoạt khối lượng tiền tệ nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu tiền tệ cho sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển. Chức năng phản ánh một cách tổng hợp và kiểm soát quá trình hoạt động của nền kinh tế.

Trong việc thực hiện chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ nhằm phục vụ yêu cầu tái sản xuất, tín dụng có khả năng phản ảnh một cách tổng hợp và nhạy bén tình hình hoạt động của nền kinh tế, do đó, tín dụng còn được coi là một trong những công cụ quan trọng của Nhà nước để kiểm soát, thúc đẩy quá trình thực hiện các chiến lược hoạch định phát triển kinh tế.

Mặt khác, trong khi thực hiện chức năng tiết kiệm tiền mặt, gắn liền với việc thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, tín dụng có thể phản ánh và kiểm soát quá trình phân phối sản phẩm quốc dân trong nền kinh tế.

4. Phân loại tín dụng

Thông thường người ta thường dựa vào các tiêu thức như: thời

gian; chủ thể; đối tượng và mục đích tín dụng để phân loại tín dụng.

4.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng

Nếu căn cứ vào thời hạn tín dụng chia tín dụng ra làm tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung, dài hạn.

-Tín dụng ngắn hạn.

Tín dụng ngắn hạn là tín dụng có thời hạn dưới một năm, vốn vay ngắn hạn thường được sử dụng để phát triển sản xuất, kinh doanh có chu kỳ luân chuyển vốn ngắn; hoặc được sử dụng đầu tư vào dịch vụ và tiêu dùng của dân cư.

– Tín dụng trung hạn.

Tín dụng trung hạn là loại tín dụng có thời hạn từ một năm đến dưới bảy năm

– Tín dụng dài hạn.

Tín dụng dài hạn là loại tín dụng có thời hạn từ bảy năm trở lên. Tùy vào tập, tục quán của từng nước, tín dụng trung hạn và dài hạn là loại tin dụng có thời hạn từ một năm trở lên.

Vốn vay trung và dài hạn thường được sử dụng để thực hiện các dự án đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống có chu kỳ luân chuyển vốn trung và dài hạn.

4.2. Căn cứ vào đối tượng tín dụng

Nếu căn cứ vào đối tượng tín dụng chia tín dụng ra làm hai loại là tín dụng vốn lưu động và tín dụng vốn cố định.

– Tín dụng vốn lưu động

Tín dụng vốn lưu động là loại tín dụng được cung cấp nhằm hình thành tài sản lưu động của doanh nghiệp hay nói khác tín dụng vốn lưu động được sử dụng để bù đắp mức vốn lưu động thiếu hụt tạm thời.

Loại tín dụng này thường được sử dụng để: dự trữ hàng hóa, dự trừ nguyên nhiên vật liệu, chi trả các chi phí sản xuất và để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu các giấy có giá trị. Thời hạn đối với loại tín dụng này thường là ngắn hạn.

– Tín dụng vốn cố định

Tin dụng vốn cố định là loại tín dụng được cung cấp nhầm hình thành tài sản cố định của chủ thể đi vay. Loại tín dụng này thường được cấp để phục vụ việc đầu từ mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các doanh nghiệp và công trình mới. Thời hạn đối với loại tín dụng này là trung hạn và dài hạn.

4.3. Căn cứ vào mục đích tín dụng

Nếu căn cứ vào mục đích sử dụng vận tín dụng, chia tín dụng ra làm tín dụng sản xuất tín dụng lưu thông và tín dụng tiêu dùng.

– Tín dụng sản xuất.

Tín dụng sản xuất là loại tín dụng được cung cấp cho các doanh nghiệp, công ty, tổ chức kinh tế để trực tiếp tiến hành sản xuất hàng hóa.

Thời hạn đối với loại tín dụng này có thể là ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn, thời hạn tín dụng tùy thuộc vào chu kỳ sản xuất hàng hóa.

– Tín dụng lưu thông và kinh doanh dịch vụ.

Đây là loại tín dụng được cung cấp cho các doanh nghiệp, công ty, tổ chức kinh tế để tiến hành buôn bán hàng hóa hoặc là kinh doanh dịch vụ. Thời hạn tín dụng tùy thuộc vào đặc điểm kinh doanh, nhưng nhìn chung thời hạn đối với loại tín dụng này thường là ngắn hạn.

– Tín dụng tiêu dùng.

Là hình thức cho vay cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng phục vụ đời sống của dân cư.

Loại tín dụng này thường được cung cấp cho việc mua sắm nhà ở và các phương tiện chuyên phục vụ cho sinh hoạt của con người như: xe ô tô, xe máy, vi tính, ti vi, tủ lạnh, máy giặt, v.v..

Tín dụng tiêu dùng được cấp phát dưới hình thức cho vay bằng tiền và trả góp hoặc dưới hình thức bán chịu hàng hóa.

Việc cấp tín dụng bằng tiền thường do các ngân hàng, hợp tác xã tín dụng, quỹ tiết kiệm và các tổ chức tín dụng khác cung cấp. Còn việc cấp phát tín dụng dưới hình thức hiện vật thường do các công ty. các cửa hàng, các siêu thị thực hiện.

Ngày nay tín dụng tiêu dùng dã có xu hướng tăng lên. Tín dụng tiêu dùng phát triển đã thúc đẩy gia tăng bán hàng ở những người bản là tạo ra yếu tố kích thích sản xuất phát triển, đồng thời các ngân hàng đã đáp ứng được một thị trường rộng lớn, khi mà hầu hết người tiêu dùng mua năm trước, sau đó mới thanh toán nợ, do vậy mà ngân hàng có thể thực hiện các dịch vụ ngân hàng và thu lợi tức ngày một nhiều, nhất là trong xu thế của sự tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người tăng, nhu cầu dịch vụ tăng nhằm phục vụ cuộc sống chất lượng cao như hiện nay.

4.4. Căn cứ vào chủ thể tín dụng

Nếu căn cứ vào chủ thể tín dụng chia tín dụng ra làm tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng Nhà nước.

– Tín dụng thương mại.

Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng bằng hàng hóa giữa các nhà doanh nghiệp trực tiếp sản xuất hoặc kinh doanh hàng hóa, nói cách khác tín dụng thương mại là quan hệ mua bán hàng hóa lẫn nhau giữa các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất hoặc kinh doanh hàng hóa.

Xuất xứ của tín dụng thương mại là do nền kinh tế thị trường luôn xảy ra hiện tượng có một số doanh nghiệp đã sản xuất ra hàng hóa và muốn bán, trong lúc đó có một số doanh nghiệp khác muốn mua nhưng chưa có tiền. Trong tình huống này, doanh nghiệp với tư cách là người bán muốn thực hiện được sản phẩm của mình họ có thể bán chịu hàng hóa cho người mua.

Hành vi mua bán chịu hàng hóa được xem là hình thức tín dụng, bởi lẽ người bán chuyển giao vốn bằng hàng hóa cho người mua sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định và khi đến thời hạn đã được thỏa thuận người mua phải hoàn lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ, số lượng tiền tệ được hoàn trả thường bằng tổng giá cả hàng hóa bán chịu. Khác với tín dụng ngân hàng và tín dụng Nhà nước tín dụng thương mại được thực hiện bằng hàng hóa nền phải có giấy tờ xác nhận nợ.

Cơ sở pháp lý xác định quan hệ mua bán chịu là kỳ phiếu thương mại hay gọi tắt là thương phiếu (Commercial Paper). Đây là một dạng đặc biệt của khế ước dân sự xác định trái quyền cho người bán và nghĩa vụ phải thanh toán nợ của người mua khi món nợ đảo hạn. Như vậy, thương phiếu chính là phiếu nợ xuất phát từ mua bán chịu hàng hóa. Hay nói cách khác, thương phiếu được sử dụng để làm chứng từ đòi nợ người di vay khi đến hạn trả.

Thương phiếu có 2 loại chủ yếu: hối phiếu và lệnh phiếu.

Hối phiếu (Bill of exchange or Draft) là một phiếu ghi nợ do chủ nợ hay còn gọi là người ký phát (drawer) lập ra để ra lệnh cho người thiếu nợ hay còn gọi là người thụ lệnh (drawee) trả một số tiền nhất định cho người thụ hưởng hay còn gọi là người hưởng lợi (beneficiary or payee) khi món nợ đáo hạn. Ở đây, người thụ hưởng có thể là chủ nợ hoặc một người nào đó do người chủ nợ chỉ định.

Lệnh phiếu (promissory note) là một phiếu nhận nợ do người thiếu nợ hay còn gọi là người ký lệnh (the maker) lập ra để cam kết trả một số tiền nhất định cho người chủ nợ hoặc theo lệnh của người thụ hưởng (the payee or the bearer) khi món nợ đến hạn.

Hối phiếu và lệnh phiếu đều có thể dùng thủ tục bối thự hay còn gọi là thủ tục ký hậu (endorsement) để chuyển quyền sở hữu món nợ ghi trên thương phiếu cho chủ thể khác hưởng lợi.

Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng thừa thiếu vốn của các doanh nghiệp thường xuyên xảy ra, vì vậy tín dụng thương mại tồn tại là sự tất yếu và đóng một vai trò rất quan trọng, một mặt đáp ứng được nhu cầu vốn của những doanh nghiệp tạm thời thiếu hụt vốn nhưng vẫn tiến hành sản xuất, kinh doanh được liên tục, đồng thời giúp cho các doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm tiêu thụ được hàng hóa của mình.

Mặt khác, sự tồn tại của tín dụng thương mại sẽ giúp cho các doanh nghiệp chủ động khai thác được vốn nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.

Trước đây trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, hầu hết các nước Xã hội Chủ nghĩa dầu nghiêm cấm tín dụng thương mại hoạt động, vì các nhà quản lý cho rằng mua bán chịu là hình thức chiếm dụng vốn lẫn nhau.

Từ năm 1984 trở đi, gắn liền với quá trình cải tổ và đổi mới quản lý kinh tế, tín dụng thương mại mới được thừa nhận và được phép hoạt động ở các nước Xã hội Chủ nghĩa cũ.

Mặc dù tín dụng thương mại có vai trò rất tích cực trong nền kinh tế và là một hình thức tín dụng không thể thiếu, tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường cần phải duy trì nhiều hình thức tín dụng chứ không chỉ duy trì một loại hình tín dụng nào, mặt khác, hình thức tín dụng thương mại có những mặt hạn chế nhất định cho nên cần có những hình thức tín dụng khác như tín dụng ngân hàng.

Những hạn chế tín dụng thương mại:

Thứ nhất là hạn chế về quy mô tín dụng: Vì tín dụng thương mại do các doanh nghiệp cung cấp bằng hàng hóa và họ chỉ cung cấp trong giới hạn hàng hóa đã có, nghĩa là doanh nghiệp chỉ có thể cho vay tối đa bằng lượng hàng hóa đã sản xuất ra. Do đó, nếu doanh nghiệp đi vay có nhu cầu cao hơn thì doanh nghiệp cho vay không thể đáp ứng đầy đủ được.

Thứ hai là hạn chế về thời hạn cho vay: Bởi lẽ, điều kiện kinh doanh và chu kỳ sản xuất của một doanh nghiệp có thể không phù hợp nhau, vì vậy khi thời hạn mà người cho vay muốn cung cấp và người đi vay có nhu cầu không phù hợp nhau thì tín dụng thương mại không thể xảy ra. Thông thường, tín dụng thương mại giữa các doanh nghiệp chỉ thực hiện với thời hạn ngắn.

Thứ ba là hạn chế về phương hướng hoạt động: Do tín dụng thương mại được cung cấp bằng hàng hóa, mà hàng hóa đôi bên cung cấp cho nhau đòi hỏi phải có sự phù hợp. Chính vì thế doanh nghiệp cho vay chỉ cung cấp được tín dụng cho một số doanh nghiệp nhất định, tức là những doanh nghiệp cần hàng hóa để sử dụng cho sản xuất hoặc dự trữ để bán ra. Mặt khác tín dụng thương mại phải có sự phù hợp về đối tượng vay nợ.

Thứ tư là hạn chế về phạm vi tín dụng: Việc cấp tín dụng thương mại phải được thực hiện thường xuyên liên tục trên cơ sở quen biết, tín nhiệm lẫn nhau giữa người bán và người mua, đặc biệt là người đi vay phải luôn sòng phẳng trong quan hệ thanh toán nợ.

– Tín dụng ngân hàng.

Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền giữa một bên là ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với một bên là cá nhân, các doanh nghiệp, các công ty, các tổ chức kinh tế

Khác với tín dụng thương mại được cung cấp dưới hình thức hàng hóa, còn tín dụng ngân hàng được cung cấp dưới hình thức tiền tệ, bao gồm tiền mặt và bút tệ.

Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, ngân hàng thương mại đóng vai trò là một định chế tài chính trung gian, với tư cách vừa là người đi vay, vừa là người cho vay.

Ngân hàng thương mại đi vay bằng cách Thứ nhất là huy động tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn kể cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.

Thứ hai là huy động bằng cách phát hành chứng chi tiến gửi, kỳ phiếu có mục đích và các loại trái phiếu ngân hàng khác có cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.

Ngân hàng thương mại cho vay với nhiều hình thức cho vay sản xuất kinh doanh doanh nghiệp; cho vay tiêu dùng cá nhân; cho vay không có tài sản đảm bảo; cho vay có tài sản đảm bảo; cho vay trả góp; cho vay hoàn trả một lần; cho vay chiết khấu hoặc tài trợ ngoại thương.

Giữa tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Quan hệ mua bán chịu gia tăng sẽ tạo cơ sở để phát triển tín dụng ngân hàng. Điều này thể hiện thông qua việc cấp vốn tín dụng ngân hàng trên cơ sở chiết khấu hoặc cầm cố thương phiếu. Ngược lại, hoạt động tín dụng ngân hàng đã góp phản khắc phục các mặt hạn chế của tín dụng thương mại, đồng thời tạo điều kiện cho tín dụng thương mại phát triển.

Công cụ lưu thông là kỳ phiếu ngân hàng gồm có giấy nhận nợ của ngân hàng thương mại với khách hàng tiền gửi và giấy ghi nợ của ngân hàng thương mại với khách hàng tiền vay.

Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng phổ biến và chiếm nhiều ưu thế vì quan hệ tín dụng bằng tiến nên: không bị hạn chế về quy mô tín dụng; không bị hạn chế về thời hạn cho vay; không bị hạn chế về phương hướng hoạt động: không bị hạn chế về phạm vi tín dụng.

Vai trò của tín dụng ngân hàng được biểu hiện cụ thể như sau:

+ Thúc đẩy kinh tế phát triển:

Hoạt động huy động vốn và cho vay của ngân hàng thương mại đã góp phần điều hòa văn từ nơi thừa mang nơi thiếu, từ đó góp phần duy trì quá trình tái sản xuất được tiến hành một cách thường xuyên liên tục.

Sự vận hành liên tục của tín dụng ngân hàng sẽ là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, từ đó kích thích quá trình tiết kiệm và gia tăng vốn cho đầu tư phát triển.

+ Thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tích tụ vốn

Nhờ hoạt động của các ngân hàng thương mại và trung gian tài chính, các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi năm rãi rác trong dân cư được huy động tạo thành các quỹ cho vay tập trung để cho vay đáp ứng nhu cầu nền kinh tế. Tuy nhiên, nguồn vốn tập trung này không phải được cho vay rải đều cho mọi đối tượng trong xã hội mà được đầu tư một cách tập trung vào những ngành sản xuất then chốt, những khu vực kinh tế trọng điểm, những doanh nghiệp sản xuất có hiệu quả, từ đó tạo động lực thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế.

Sự vận hành liên tục của tín dụng ngân hàng vừa giúp cho các ngân hàng thương mại và trung gian tài chính kinh doanh có hiệu quả, có lợi nhuận trong kinh doanh lại vừa giúp cho khách hàng mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh thu được lợi nhuận tối đa làm cho tổng số vốn của xã hội gia tăng.

+ Góp phản tác động đến việc nâng cao chế độ hạch toán kinh tế.

Bản chất của tín dụng là có tính hoàn trả gồm cả vốn gốc và lợi tức, do vậy nó buộc các chủ thể vay vốn phải luôn luôn quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay, tiết giảm chi phí, nhằm nâng cao doanh lợi, để vừa có khả năng trả nợ gốc, trả nợ lãi mà vẫn có lợi nhuận.

Sự thẩm định, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay của ngân hàng cũng góp phần giúp các doanh nghiệp nâng cao ý thức chấp hành nghiêm túc nguyên tắc hạch toán kinh tế: lấy thu bù chi, có doanh lợi.

+ Tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế, đối ngoại thông qua hoạt động tài trợ ngoại thương, đã góp phần thúc đẩy việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa. hiện đại hóa đất nước.

– Tin dụng Nhà nước.

Tín dụng Nhà nước là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ hoặc là bằng hiện vật giữa một bên là Nhà nước với một bên là dân cư, mà trong đó Nhà nước là người đi vay để trang trải các khoản chi tiêu ngân sách Nhà nước, còn dân cư là người cho vay bằng việc mua trái phiếu Chính phủ như: Công trái Nhà nước hoặc Tín phiếu Kho bạc Nhà nước.

Chủ thể tham gia trong quan hệ tín dụng Nhà nước gồm có: Nhà nước, mọi chủ thể khác trong nền kinh tế (gọi chung là dân cư), trong đó Nhà nước là người đi vay bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ, còn dân cư là người cho vay bằng cách mua trái phiếu Chính phủ.

Bản chất của tín dụng Nhà nước có đặc trưng cơ bản là sự hoàn trả và có lợi tức, giống như bản chất của tín dụng nói chung; ngoài ra, nó còn có những đặc trưng khác. Những đặc trưng này xuất phát từ quyền lực chính trị, từ chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong quản lý kinh tế – xã hội.

Để phục vụ cho chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế xã hội, tín dụng Nhà nước mang các đặc điểm sau đây:

– Phạm vi hoạt động vốn rộng lớn: Vì Chính phủ vừa huy động trong nước, vừa huy động ngoài nước. Chính phủ huy động trong nước để tập trung tiền nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế – xã hội, các tổ chức tài chính trung gian, Chính phủ huy động nước ngoài dưới hình thức Nhà nước của nước này vay của Nhà nước các nước khác hoặc vay của các tổ chức tài chính – tín dụng quốc tế và khu vực.

– Hình thức huy động vốn rất phong phú, đa dạng; có thể huy động bằng tiền, vàng, ngoại tệ, hiện vật. Điểu này đã tạo điều kiện cho Nhà nước huy động vốn từ nhiều đối tượng, nhiều thành phần khác nhau trong xã hội.

– Các hình thức huy động vốn của Nhà nước rất linh hoạt về thời gian như phát hành các loại trái phiếu Chính phủ ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và hình thức huy động vốn phong phú như phát hành các loại trái phiếu quốc nội; trái phiếu quốc tế; trái phiếu huy động bằng nội tệ; trái phiếu huy động bằng ngoại tệ; trái phiếu và danh; trái phiếu ký danh; trái phiếu đích danh; trái phiếu chiết khấu trái phiếu coupon; trái phiếu tích lũy. Việc hưởng ứng mua trái phiếu của dân cư cũng thuận tiện, có thể mua bằng tiền mặt, chuyển khoản hoặc mua bằng hiện vật. Điều này đã giúp cho Nhà nước huy động vốn với một khối lượng lớn, đảm bảo trang trải các khoản chi tiêu của ngân sách Nhà nước.

(Nguồn tài liệu: TS. Lê Thị Mận, Lý thuyết Tài chính Tiền tệ)

Rate this post

Leave A Reply

Your email address will not be published.