Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ và Sự thành lập nước Mỹ

0

Sau cuộc Cách mạng tư sản Anh khoảng 100 năm, một cuộc biến động xã hội chính trị to lớn đã bùng nổ ở châu Mỹ. Đó là cuộc cách mạng tư sản đầu tiên ở châu Mỹ, chịu ảnh hưởng trực tiếp của cách mạng Anh nhưng lại mang hình thức chiến tranh vì tự do chống lại thực dân tư bản Anh. Cuộc cách mạng này mang tính chất giải phóng dân tộc có ý nghĩa thế giới với Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng, bắt đầu như một nguyên lý:

“Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã ban cho họ những quyền không thể tước bỏ được. Trong những quyền ấy, có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Đó là kết quả của sự phát triển kinh tế xã hội, của tinh thần đấu tranh kiên cường của nhân dân 13 bang thuộc địa của Anh.

I – Tình hình 13 bang thuộc địa trước chiến tranh cách mạng

1. Công cuộc xâm chiếm thực dân ở Bắc Mỹ

Các nhà sử học, kinh tế học tư sản đều cố chứng minh cho luận điểm đầy thiên kiến là lịch sử nước Mỹ bắt đầu từ những sự kiện phát triển địa lý của những nhà thám hiểm châu Âu, và những sự khai phá của di dân châu Âu vào những năm đầu thế kỷ XVI. Thực ra, nền văn hóa của Mỹ bắt đầu từ những cư dân bản địa là người da đỏ, mà sách vở thường gọi là người Anh điêng. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu của các nhà nhân chủng học, khảo cổ học, sử học thì người da đỏ vốn từ châu Á thiên di sang khoảng 25000 năm. Họ vượt qua eo biển Bêrinh và Alatka, rồi từ đó tràn vào Bắc Mỹ. Cho đến ngày nay, khảo cổ học chưa phát hiện được một di chỉ nào thuộc thời đại đồ đá cũ.

Những bộ lạc người da đỏ đã sống trên những vùng phì nhiêu Bắc Mỹ. Họ đã trải qua những thời kỳ phát triển với những trình độ khác nhau. Moocgan đã nhận định: tộc Irôqua, Angônkin v.v… ở miền đông sông Mitxuri đang còn trong giai đoạn thấp của thời kỳ dã man. Nhưng nói chung họ còn sống trong giai đoạn bộ lạc, đất đai sở hữu chung. Việc bầu cử dân chủ công bằng đã tuyển lựa những thủ lĩnh có tài, có khả năng đoàn kết bộ lạc và chiến đấu một cách ngoan cường chống lại sự xâm lược của kẻ đến cướp bóc. Họ làm nghề trồng tỉa, hái lượm, đánh cá và săn bắn, thích nghi với việc khai thác nguồn lợi thiên nhiên. Những kinh nghiệm trồng tỉa thuốc lá, ngô, cà chua và cả kỹ thuật đóng thuyền, chèo thuyền trên sông Bắc Mỹ cũng đã giúp ích cho những người di dân châu Âu đến đây sinh sống. Quá trình xâm thực tàn bạo của thực dân châu Âu bắt đầu từ thế kỷ XVI, sau cuộc thám hiểm của Crixtôp Côlôngbô.

Người Tây Ban Nha là người đầu tiên đặt chân lên Phloriđa. Và đến giữa thế kỷ XVI, họ đi sâu vào lục địa châu Mỹ qua Carolina tiến đến bờ sông Mitxixipi rồi sau đó vào vùng Tếchdát năm 1635. Vài năm sau, 1640 người Tây Ban Nha tới miền Niu Mêhicô, Aridônna, Kandát và Caliphoócnia.

Đầu thế kỷ XVI, người Pháp bắt đầu chú ý xâm thực vùng đất này. Họ xây dựng cơ sở ở Canada, và năm 1540, đặt thương điếm đầu tiên của Pháp bên bờ sông Hútsôn. Sau đó người Pháp tiến vào vùng đất hồ Giócgiơ (vùng tiểu bang Niu Oóc hiện nay), thành lập vùng đất Ludiana thuộc Pháp vào thế kỷ XVII.

Hồi đó, Hà Lan là nước thực dân có tiềm lực. Ngay từ đầu thế kỷ XVII, công ty Đông Ấn Hà đã sang Bắc Mỹ và mở mang công cuộc khai hóa. Năm 1614 trên vùng Niu Oóc ngày nay, người Hà Lan đã thành lập đất

Niu Amxtécđam. Họ xây dựng cứ điểm trên vùng châu thổ các sông Hútsôn, Đơlaoa và buôn bán da thú, thuốc lá, Mỹ trở thành nơi buôn bán quan trọng của Hà Lan.

Vùng Bắc Mỹ khi đó bị coi như vùng đất vô chủ nên các nước thực dân châu Âu đều tìm cách xâm chiếm. Thụy Điển cũng tham gia công cuộc xâm thực này. Cuối những năm 30 thế kỷ XVII, họ xây dựng nên vùng đất Thụy Điển mới ở giữa thác của con sông Trenton và mũi Henlopen. Họ dựng đồn trú ở gần địa điểm thành phố Uynmintơn ngày nay. Nhưng người Hà Lan đã đánh bại người Thụy Điển vào năm 1655.

Tuy vậy công cuộc xâm thực của Anh là mạnh mẽ và có hiệu quả hơn cả. Cuộc đấu tranh gay gắt trong nước Anh trước cuộc cách mạng 1640 là nguyên nhân tạo nên một làn sóng di cư rộng lớn ra nước ngoài tìm đất sống. Họ ra đi vì cuộc sống kinh tế như nông dân, dân nghèo thành thị; có người ra đi vì tư tưởng bất đồng giữa tín đồ Thanh giáo và Anh giáo; cũng có trường hợp vì muốn tìm một cuộc sống mới thỏa mãn niềm khao khát về một miền đất lạ. Nhưng nguồn di thực chủ yếu vẫn là nông dân mất đất, không còn cách sinh sống trên đất Anh.

Cuộc khai khẩn thực dân của Anh phát triển mạnh mẽ vào đầu thế kỷ XVII. Năm 1607 người Anh chính thức đặt chân lên vùng đất Viêcginia. Những cuộc di thực của Anh đối với Bắc Mỹ trở nên mạnh mẽ vào những năm 20 thế kỷ XVIII, khi chính sách tước đoạt ruộng đất ở Anh của giai cấp tư sản quý tộc lên tới đỉnh điểm. Đến năm 1752, Anh đã thành lập được 13 vùng thuộc địa. Năm 1754 trên đất thực dân Anh ở Bắc Mỹ đã có tới 1,3 triệu người. Tiếng Anh trở thành tiếng được phổ biến rộng rãi ở Bắc Mỹ.

Nguyên nhân chính làm cho người Anh thắng lợi trong công cuộc xâm thực là tính ưu thắng của nền kinh tế, xã hội của nước Anh lúc bấy giờ. Vào thế kỷ XVII-XVIII, nước Anh đã vượt qua các nước khác về phát triển kinh tế; điều kiện đó làm cho nước Anh chiếm ưu thế trong công cuộc bành trướng ở Bắc Mỹ. Tư sản thương nghiệp Anh chuyên chở hàng hóa của Anh đến châu Mỹ và từ châu Mỹ mang về những nguyên liệu đang cần cho một nền công nghiệp phát triển. Bắc Mỹ có các loại gỗ cần cho công nghiệp đóng thuyền của Anh. Điều này bảo đảm cho Anh có hạm đội mạnh giữ vững được địa vị trên đại dương.

Một yếu tố quan trọng khác nữa là cuộc cách mạng ruộng đất ở Anh đã diễn ra một cách tàn bạo và triệt để. Người nông dân Anh mất đất phải tìm đường sang châu Mỹ. Hàng ngàn nông dân Anh ồ ạt di cư sang Mỹ vào thế kỷ XVIII phải canh tác nông nghiệp, tạo thêm thế vững cho công nghiệp phát triển ở vùng Bắc Mỹ sau này.

Nền chính trị ở Anh hồi thế kỷ XVII cũng làm cho công cuộc di dân Anh mạnh mẽ hơn. Cả những người trong tầng lớp tư sản, quý tộc chống đối cũng rời bỏ nước Anh đi khẩn thực. Tất cả những yếu tố trên làm cho cơ sở của Anh ở Bắc Mỹ mạnh hơn, có xu hướng phát triển thành một xã hội hoàn chỉnh. Tất nhiên những yếu tố đó cũng đã tạo nên tiền đề cho một cuộc cách mạng tư sản.

2. Những tiền đề của cuộc cách mạng giải phóng và dân chủ

a) Nông nghiệp Bắc Mỹ và xu hướng phát triển tư bản chủ nghĩa

Vào thế kỷ XVII-XVIII, nước Anh coi Bắc Mỹ chỉ là vùng nông nghiệp phụ thuộc chính quốc. Đối tượng bóc lột của Anh ở đây là người da đỏ, nô lệ da đen và cả những người dân di thực. Nhiệm vụ hàng đầu của Bắc Mỹ là cung cấp các loại nguyên liệu và lương thực cho nước Anh.

Ở các vùng phía nam như Viếcginia. Mêrilen, Carôlinna chuyên trồng thuốc lá, trồng lúa và chăn nuôi. Những sản phẩm này làm ra để xuất khẩu và phục vụ chính quốc. Ở đây đã xuất hiện nhiều đồn điền rộng lớn, có đồn điền rộng tới 26000 acrơ.

Những con số xuất khẩu thuốc lá, gạo, chàm của các vùng trên có ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế đã chuyên môn hoá.

Năm 1700, Viêcginia xuất cảng thuốc lá gần 4,6 triệu kg mỗi năm.

Năm 1775, Saclơxtôn xuất cảng gạo đạt 125.000 bao mỗi năm.

Năm 1775, nam Carôlinna xuất cáng 1.150.662 phun chàm.

Ở vùng Bắc nước Anh mới (New England), điều kiện khí hậu và đất đai không thuận lợi bằng miền Nam, người ta trồng ngô, lúa mì đen; còn ở miền Trung thì trồng lúa mì.

Việc canh tác nông nghiệp chủ yếu dựa vào sự bóc lột sức lao động của nô lệ và dân nghèo làm thuê.

Quý tộc tư sản Anh sang Bắc Mỹ muốn duy trì những tàn dư chế độ phong kiến ở đất mới để trở thành đại địa chủ. Vua Anh phân phong những vùng đất mới cho quý tộc, có vùng rộng lớn tới hàng vạn kilômet vuông.

Ví dụ: Năm 1681, vua Sáclơ XI đã cho Uyliam em phần lớn đất Penxinvania ngày nay rộng trên 6 vạn kilômét vuông. Những thống đốc thường là những đại địa chủ quý tộc có đến hàng vạn ha đất đai như thống đốc bang Viêcginia.

Việc tập trung ruộng đất trong tay quý tộc và lối bóc lột phong kiến cùng với sự bóc lột kiểu nông nô, nô lệ đã làm cho mâu thuẫn trong nông thôn Bắc Mỹ trở nên gay gắt.

Trước tiên, nông dân nghèo di cư sang Bắc Mỹ bất chấp luật lệ tàn khốc cột chặt họ vào đất đai của địa chủ tư sản đã tự động nổi dậy chống việc nô dịch hoá, chống nạn cho vay lãi v.v…

Ví dụ: Năm 1676 ó Viêcginia nổ ra cuộc khởi nghĩa của Bécon; năm 1689-1691 có cuộc khởi nghĩa của Leide ở Niu Ioóc; ở Niu Inglân có cuộc khởi nghĩa nông dân năm 1689; năm 1765 ớ Penxinvania còn nổ ra cuộc đấu tranh gay gắt hơn, rộng lớn hơn.

Những vùng đất trống ở phía tây còn nhiều, nông dân tá điền, nông dân nghèo tự động đi về phía tây khai khẩn. Họ tạo thành phong trào của những người “Xquatơ”[4] Bọn đại địa chủ quý tộc tìm cách ngăn cản và phá hoại những cơ sở sinh sống của người “Xquatơ”. Năm 1763 vua Anh ra sắc lệnh cấm khẩn thực vùng đất đai rộng lớn bên kia dãy núi Alêgơnít và lưu vực sông Mitxixipi. Năm 1774 nhà vua ra lệnh cấm cư dân 13 bang thuộc địa không được di cư về phía tây. Mâu thuẫn này trở nên gay gắt, sự xung đột giữa chế độ “phácmơ” đang hình thành và phát triển theo yêu cầu của kinh tế Bắc Mỹ với chế độ phong kiến do bọn quý tộc ruộng đất đang cố bám chặt đã tạo điều kiện cho sự ra đời chủ nghĩa dân chủ cách mạng Mỹ. Trong tình hình đó, Đại hội lục địa lần thứ nhất vào tháng 9-1774 ở Philađenphi được triệu tập.

Chế độ đồn điền đã làm cho kinh tế nông nghiệp Mỹ mang theo đặc trưng riêng. Chính yếu tố này làm cho lịch sử hình thành nước Mỹ bắt đầu từ chế độ nô lệ, chứ không phải từ sự tự do. Chế độ nô lệ đã là một điểm xuất phát của kinh tế Mỹ, của sự làm giàu của giai cấp tư sản Mỹ.

Nói đến chế độ nô lệ đồn điền trước tiên phải nói đến nô lệ da đen. Sự bóc lột nô lệ da đen đặc biệt phát triển ở vùng kinh tế miền Nam. Nó giữ vai trò quan trọng trong nghề trồng bông ở miền Nam và ngay cả trong công nghiệp đóng tàu, công nghiệp dệt…

Những người nô lệ đầu tiên bị thực dân Hà Lan chở sang vào năm 1619. Không lâu sau, việc buôn bán nô lệ ra đời đem lại lợi nhuận lớn có khi lãi tới 1000%. Những người nô lệ da đen bị khinh miệt như người hạ đẳng. Họ phải lao động kiệt lực và nhận khẩu phần vô cùng ít ỏi. Họ có thể bị giết, bị đánh đập và đem bán tùy ý chủ. Số dân nô lệ ở 13 bang thuộc địa vào năm 1770 đã có tới 462.000 người, có bang như nam Carôlinna chiếm 60%, cư dân, Viếcginia 40%, cư dân.

Chế độ nô lệ không loại trừ người da trắng. Họ là những tù nhân, con nợ, những người bị tình nghi về chính trị và số đông trẻ em bị bắt cóc bán sang thuộc địa. Họ hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của chủ nô trong 21 năm, hoặc từ 4 đến 7 năm.

Đất đai khai khẩn ở Mỹ thấm mồ hôi và máu của người nô lệ. Những người nô lệ đã chết tới hàng triệu để làm giàu cho bọn chủ. Chế độ nô lệ đã loại trừ chế độ lao động làm thuê, mối quan hệ mới xuất hiện cùng với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhưng kết quả của lao động lại hoàn toàn phục vụ cho thị trường tư bản. Chính điều này làm hoạt động của chế độ nô lệ lại phục vụ cho mục đích kinh doanh. Đó là đặc trưng của chế độ nô lệ Mỹ. Nhà tư bản, chủ đồn điền và chủ nô đã hóa thân thành một. Sự tàn bạo của nó cũng vì đó nhân lên gấp bội. Nô lệ đồn điền trở thành một dạng đặc biệt trong quan hệ nông nghiệp của nước Mỹ trong quá trình đẩy nhanh sự tích lũy tư bản.

b) Sự phát triển kinh tế công thương nghiệp

Các ngành công nghiệp của Bắc Mỹ phát triển nhằm đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng của thị trường nội địa và chính quốc. Ngành đóng thuyền phát triển đặc biệt thuận lợi. Ở đây có nhiều gỗ, ngoài phần khai thác chở về chính quốc cho công nghiệp, các ngành phục vụ hàng hải, vận chuyển đường sông cũng phát triển.

Từ đầu thế kỷ XVII (1624) ở Nin Inglân đã đóng hai thuyền chuyên chở trên sông. Năm 1631 đóng chiếc thuyền biển đầu tiên. Giữa thế kỷ XVII đã chế tạo những loại thuyền 300 tấn. Đến thời cách mạng Anh, số tàu thuyền của Anh, có tới 30% đóng ở Bắc Mỹ.

Những ngành công nghiệp nặng khác như khai mỏ, luyện sắt thép đều tăng tiến. Giữa thế kỷ XVIII đã có 4 xí nghiệp luyện kim, 5 lò nấu thép. Những thuộc địa miền Trung và Bắc Mỹ đã sản xuất được sắt tấm, đinh, neo thuyền. Song ngành gia công kim khí đã bị Anh kìm hãm vì sợ cạnh tranh với chính quốc.

Những ngành công nghiệp dệt vải, dệt len, nghề thuộc da, đóng giày cũng phát triển. Đặc biệt công nghiệp nấu rượu được mở mang, không chỉ phục vụ cho nội địa mà còn là hàng trao đổi, buôn bán có lợi. Họ đem cả rượu sang châu Phi để đổi lấy nô lệ da đen.

Ngành thương nghiệp ở 13 bang thuộc địa cùng với công nghiệp, nông nghiệp sản xuất hàng hóa đã phát triển. Đặc biệt thương nghiệp phát triển ở Niu Inglân. Ngành buôn bán da lông thú, ngành đánh cá, khai thác gỗ, thuốc lá, lúa mì, chàm đều chiếm vị trí quan trọng. Giá trị xuất khẩu không ngừng tăng.

Trong những năm 1700 1710, trung bình mỗi năm 13 bang thuộc địa đã xuất sang Anh số hàng trị giá 265.783 bảng Anh. Nhưng 50 năm sau, giá trị hàng xuất khẩu của thuộc địa Bắc Mỹ lên lới 1.044.591 bảng.

Thuộc địa còn buôn bán trực tiếp với các nước Tây Ban Nha, Pháp, Hà Lan, Tây Ấn.

Nhưng công thương nghiệp thuộc địa không tránh khỏi mâu thuẫn với chính quốc. Sự cạnh tranh dẫn tới việc can thiệp của chính quốc nhằm hạn chế sự phát triển công thương nghiệp thuộc địa. Khuynh hướng của các thuộc địa muốn tách khỏi sự ràng buộc phi lý với nền kinh tế Anh ngày càng rõ rệt. Chính phủ Anh tìm mọi cách ngăn chặn sự phát triển công thương nghiệp Bắc Mỹ, muốn các thuộc địa chỉ là thị trường tiêu thụ hàng hóa của chính quốc và là vùng cung cấp nguyên liệu, thực phẩm cho Anh. Do vậy, nhiều đạo luật ban hành nhằm cấm phát triển công thương nghiệp thuộc địa. Năm 1750, “đạo luật về sắt” cấm xây dựng nhà máy cán sắt thép, xưởng rèn lớn, lò nấu thép. Chính phủ Anh còn ngăn cấm Bắc Mỹ buôn bán với các nước khác cũng như giữa các thuộc địa với nhau. Chính sách thuế khóa ngày càng gây khó khăn lớn cho sản xuất công nghiệp và thương nghiệp Bắc Mỹ. Sự chống đối lại chính quốc để phát triển là điều tất nhiên. Giai cấp địa chủ tư sản, tư sản công thương nghiệp bất mãn trước những trở lực do sự cạnh tranh của tư sản chính quốc gây nên. Mâu thuẫn ngày càng sâu sắc giữa thuộc địa và chính quốc, giữa đòi hỏi phát triển của Bắc Mỹ và sự ngăn cản phi lý của chính quyền Anh nhất định sẽ dẫn tới cuộc đấu tranh quyết liệt

c) Chính sách thống trị của Anh và sự hình thành dân tộc tư sản Bắc Mỹ

Về tổ chức chính trị, thực dân Anh chia các thuộc địa Bắc Mỹ thành hai loại. Những bang được hưởng đặc quyền của nhà vua như: Mêrilen, Rốtailen, Connêchticớt, Penxinvania, Đơlaoa là những bang tự trị. Ở các bang khác, nhà vua và chính phủ Anh trực tiếp cử các thống đốc cai trị.

13 bang thuộc địa không có luật pháp riêng mà phải tuân theo luật pháp Anh. Đại diện của nhà vua nắm quyền chỉ huy quân đội, hải quân, chọn nhân viên hành chính. Việc bầu cử chỉ hạn chế trong tầng lớp quý tộc giàu có chiếm từ 2 đến 9% dân cư. Những người nô lệ, người da đỏ đều không có quyền công dân. Quyền tự do dân chủ của dân tự do, công nhân và ngay cả các “phácmơ” cũng rất hạn chế.

Cư dân Bắc Mỹ là dân di thực, vốn thích sống tự do ở những vùng đất hoang. Họ không có thói quen kính trọng nhà vua. Họ không có quyền cử đại biểu trong nghị viện Anh nên họ cũng cho rằng mình không có nghĩa vụ nộp thuế. Trong lúc đó, từ sau năm 1763, chính phủ Anh lại tăng thêm các yêu sách về tài chính, tập trung vào việc thu thuế. Bọn thống đốc, bọn chúa đất thực dân chuyên chế độc đoán là lực lượng bảo thủ phản động chống lại dân chủ tự do. Nhưng một bộ phận chủ đồn điền, các nhà kinh doanh, trí thức tư sản vì quyền lợi của mình cũng có xu hướng dân chủ.

Thành phần cư dân thuộc địa vào thế kỷ XVIII cũng gia tăng những yếu tố mới. Cùng với người Anh có người Đức, Hà Lan, Thụy Điển, Ailen. Những nguồn gốc khác nhau làm cho họ không thể nào quen với trật tự của Anh. Họ quần tụ với nhau và tạo nên một cộng đồng mới, dần dần dùng ngôn ngữ chung là tiếng Anh. Ngay cả người gốc Anh sinh sống ở Bắc Mỹ cũng nảy sinh mối mâu thuẫn đòi tách khỏi chính quốc.

Yếu tố quyết định sự hình thành dân tộc ở Bắc Mỹ chính là nền kinh tế phát triển toàn diện đã dẫn tới khả năng tự chủ. Thị trường dân tộc dần dần hình thành. Sự trao đổi giữa các thuộc địa đòi hỏi sự thống nhất giá cả, luật lệ và thuế khóa. Việc phát triển giao thông đường sá, bưu điện làm cho 13 bang thuộc địa gắn bó với nhau hơn. Sự gần gũi về quyền lợi và sự phát triển cùng trên một dải đất đã khiến cho những biến động xã hội, chính trị đều tác động đến nhau. Cư dân thuộc địa đã bắt đầu hình thành ý thức về vùng lãnh thổ riêng. Phong trào của Bêcơn ở Viếcginia năm 1676 đã được sự ủng hộ của Carôlinna Bắc. Cuộc đấu tranh của các “phácmơ” ở Carôlinna Bắc được sự tiếp sức của nhân dân vùng Niu Inglân.

Sự phát triển kinh tế, xã hội đã thúc đẩy nền văn hóa ở Bắc Mỹ phát triển. Các trường học, báo chí, văn nghệ, triết học đều phát triển, tạo nên một nền văn hóa Mỹ tách dần với chính quốc. Tâm lý Mỹ được hình thành trong quá trình sinh tụ trên vùng đất mới giữa người Anh, Pháp, Đức, Hà Lan v.v…

Như vậy, sau một thời gian dài di thực, những người dân Bắc Mỹ có nguồn gốc nhiều quốc tịch khác nhau đã trở thành một khối cộng đồng ổn định, thành lập trong quá trình lịch sử, dựa trên cơ sở cộng đồng về tiếng nói, về lãnh thổ, về sinh hoạt kinh tế và cấu tạo tâm lý biểu hiện trong cộng đồng văn hóa. Như vậy là một dân tộc đã được hình thành ở Bắc Mỹ với những điều kiện vững chắc của nó. Cuộc đấu tranh giành thắng lợi cho một quan hệ xã hội mới là điều không thể tránh khỏi. Trong cuộc đấu tranh này, lực lượng quần chúng nông dân, thợ thủ công, nô lệ trở thành lực lượng chính, giai cấp tư sản dân chủ là bộ phận lãnh đạo phong trào đấu tranh.

d) Mâu thuẫn dẫn lới chiến tranh

Sự lớn mạnh về kinh tế và tiềm năng phát triển dồi dào về mọi mặt làm cho Bắc Mỹ ngày càng mâu thuẫn sâu sắc với chính quốc. Chế độ nô lệ da đen, da trắng và sự bóc lột lao động trở thành lực cản sự phát triển xã hội. Nhân dân đấu tranh đòi giải phóng, đòi tự do phát triển kinh tế và văn hóa. Nhưng nước Anh không muốn mất những nguồn lợi đã từng khống chế, muốn Bắc Mỹ luôn là thuộc địa của mình. Tầng lớp tư sản, chủ đồn điền và tiểu tư sản ở Bắc Mỹ trở thành lực lượng tham gia lãnh đạo cuộc chiến tranh giành độc lập.

Vào tháng 5-1756 cuộc chiến tranh giành giật đất đai ở Bắc Mỹ, Anh và Pháp bắt đầu, lịch sử gọi là chiến tranh Bảy năm (1757-1763). Trong cuộc chiến tranh này, Anh nắm quyền bá chủ trên biển, đã huy động được tiềm năng quân sự trội hơn nên đã chiến thắng. Năm 1763 Pháp thất bại phải ký hòa ước Pari (10-2-1763), theo đó, Canada thành đất thuộc quyền Anh. Vì mối liên quan ủng hộ Pháp trong cuộc chiến tranh này, Tây Ban Nha cũng phải mất cho Anh vùng Phloriđa.

Sau khi lũng đoạn được vùng Bắc Mỹ, Anh tăng cường chế độ cai trị chuyên chế.

Từ những năm 50 của thế kỷ XVII (1651), luật hàng hải giành độc quyền chuyên chở sản phẩm Bắc Mỹ sang Anh và ưu đãi hàng Anh được nhập vào Bắc Mỹ đã làm tăng mâu thuẫn giữa Anh với tư bản Mỹ. Đạo luật về ruộng đất năm 1763 ngăn cấm dân di thực đi về phía tây đến vùng châu thổ sông Mitxixipi. Cuộc đấu tranh chống lại đạo luật ruộng đất diễn ra quyết liệt. Những người buôn da và lông thú, những chủ đầu cơ đất, những kiểu dân cùng đường đang hy vọng một khoảnh đất, nay bị đạo luật khắc nghiệt của chính quốc ngăn trở, nên rất bất mãn.

Vào năm 1764, các sắc luật về thuế mới đánh vào hàng nhập cảng, về việc chặn bắt buôn lậu, về thuế đường nhập khẩu, và việc cấm thuộc địa phát hành tiền tệ đã làm cho mâu thuẫn giữa chính quốc và thuộc địa ngày thêm gay gắt.

Nhân dân Bắc Mỹ càng bất bình hơn khi chính phủ Anh đặt ra thuế tem (Stemp act) đánh vào các kiện hàng nhập khẩu. Thuế tem đụng chạm đến mọi hoạt động kinh doanh và ngay cả đối với các loại văn hóa phẩm. Thực dân Anh muốn bắt người dân Mỹ đóng góp một số tiền chừng 100.000 bảng Anh để có thể duy trì một đạo quân 10.000 người. Việc đánh thuế tem gây nên mối công phẫn lớn. Ngòi lửa đấu tranh đầu tiên bùng lên ở Bôxtơn. Những nhân viên phụ trách ngành này bị quần chúng đấu tranh, đánh đập, bôi nhựa đường dính lông chim đầy người. Các cơ quan đánh thuế tem bị phá hủy. Bôxtơn là thủ phủ của Masaxuxét phát đi tín hiệu đấu tranh. Phong trào dấy lên khắp đất nước.

Căn cứ theo đề nghị của bang Masaxuxét, đại hội bàn về thuế tem của các thuộc địa được triệu tập ở Niu Oóc ngày 7-10-1765. Đại hội gồm đại biểu 9 bang về dự và quyết nghị không nộp các thứ thuế do Quốc hội Anh quyết định. Đó là sự phản kháng nhằm đòi quyền tự quyết về kinh tế. Cuộc đấu tranh làm cho chính quyền Anh phải bãi bỏ thuế tem, song lại thay bằng thứ thuế khác. Năm 1767 Anh lại ban hành luật về thuế chè và các thứ thuế khác. Nhưng nhân dân thuộc địa phản đối quyết liệt, chính phủ Anh chỉ còn giữ lại thuế chè.

Trong cuộc đấu tranh của nhân dân, khẩu hiệu: “Tự do và tư hữu”, “Thống nhất hoàn toàn hay là chết.” thành ngọn cờ tập hợp lực lượng. Những hội kín ra đời liên kết lực lượng và thống nhất tư tưởng. Tổ chức có tính chất tiến bộ lúc bấy giờ là “Hội những người con tự do” (Sons of Liberty). Nhiệm vụ của Hội là đấu tranh chống ách áp bức của nhà vua và Quốc hội Anh, phản ánh yêu cầu thống nhất của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh. Chính vì vậy, thành phần tham gia tổ chức khá rộng rãi. Giai cấp tư sản, tiểu tư sản, công nhân, thợ thủ công, người đánh cá, trí thức tiểu tư sản đều gia nhập Hội. Tiêu biểu cho tư tưởng tự do là Tômát Ghépphécsơn (1743-1826).

“Những người con tự do” lấy tư tưởng của Lôcke và của Giôn Minton (J. Locke, John Milton) về quan niệm một nhà nước tư sản làm mục tiêu đấu tranh. Tác phẩm của Lôcke “Tiểu luận về chính quyền dân sự” xuất bản năm 1690 đã cung cấp cho cuộc đấu tranh giành độc lập Bắc Mỹ một nội dung lý thuyết về nhà nước tư sản. Đó chính là tư tưởng cách mạng tư sản Anh lan sang Mỹ, được chấp nhận và được áp dụng trong thực tiễn. Nó nêu lên nhiệm vụ của nhà nước là bảo vệ tính mạng, tự do và tài sản của nhân dân. Quyền lực chính trị là của dân và dân ủy thác quyền lực đó cho chính phủ. Chính phủ chỉ là đại diện của dân, vì thế có bổn phận thực thi quyền hành do nhân dân giao phó. Nhưng nếu chính phủ vi phạm quyền “tự nhiên” của công dân thì công dân có quyền và trách nhiệm phải lật đổ chính phủ.

Những phần tử tư sản, địa chủ có quyền lợi kinh tế mâu thuẫn với chính quốc đã hình thành tư tưởng đối lập chính quyền Anh. Đại diện cho tầng lớp này là Oasinhtơn (Washington, 1732-1799). Bản thân ông là một chủ đồn điền – chủ nô giầu có ở Viêcginia.

Từ năm 1767 các loại thuế chè, rượu, hoa quả v.v… ngày càng cao. Việc kiểm soát tàu buôn ngặt nghèo và việc tăng cường quân đồn trú khống chế thuộc địa một cách gắt gao đã đẩy nhanh quá trình cách mạng hóa quần chúng thuộc địa.

Sự kiện chè Bôxtơn bùng lên thành ngọn lửa trực tiếp của cuộc chiến tranh giành độc lập Bắc Mỹ mà thực chất là cuộc cách mạng tư sản dân chủ, một cuộc cách mạng mang tính chất đấu tranh cho tự do.

II – Quá trình chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa anh ở Bắc Mỹ và sự ra đời của nước Mỹ

1. Giai đoạn 1 của cuộc chiến tranh

a) Sự kiện chè Bôxtơn và Hội nghị lục địa lần thứ I (1774)

Sự kiện chè Bôxtơn tháng 12 năm 1773 đánh dấu một bước chuyển biến mới của tình hình. Chè Anh nhập vào Mỹ giá hạ, bị người Mỹ tẩy chay vì ý thức bảo vệ quyền tự do độc lập. Thương nhân Bắc Mỹ không những bị những điều kiện khắc nghiệt về thuế má mà còn không có quyền tự do chuyên chở và kinh doanh, nên họ đã dựa vào phong trào nhân dân để đấu tranh.

Tháng 12-1773, khi 3 chiếc tàu chở chè neo tại bến, thực dân Anh dỡ hàng nhưng bị nhân dân chống lại. Đêm 16 tháng 12 năm 1773, một nhóm người ngụy trang làm dân da đỏ dưới sự lãnh đạo của Samuen Ađam đã leo lên tàu lấy 343 thùng chè ném xuống biển. Số chè trị giá 100.000 bảng Anh. Nhân dân Bắc Mỹ coi đó là hành động chiến thắng. Còn Anh thì nổi giận, ra hàng loạt sắc luật nhằm trừng trị Bắc Mỹ và đòi nhân dân Bôxtơn phải bồi thường. Mùa xuân năm 1774 cảng Bôxtơn buộc phải đóng cửa, việc buôn bán ngưng trệ, các nhà máy không hoạt động. Hàng ngàn công nhân bị thất nghiệp. Bọn thực dân Anh cho thống đốc bang Masaxuxét quyền tự do hành động. Việc Bôxtơn, thủ phủ của bang Masaxuxét, nằm trong tình trạng bị đe dọa khủng bố đã dấy lên một cao trào chuẩn bị lực lượng sẵn sàng đối phó với những tình huống có thể xảy ra.

Chiến tranh hầu như khó có thể tránh được. Nước Anh cho tướng Ghêgiơ sang làm thống đốc bang Masaxuxét kiêm tổng tư lệnh quân đội Anh ở Bắc Mỹ. Không khí cách mạng sục sôi, ngay cả những người có khuynh hướng ôn hòa như Oasinhtơn cũng ngả theo cách mạng.

Những người lãnh đạo phong trào cách mạng ở các bang thấy cần có một Hội nghị để biểu lộ ý chí chung. Hội nghị lục địa lần thứ nhất được triệu tập trong tình trạng đó. Hội nghị họp từ ngày 5 tháng 9 đến 26 tháng 10 năm 1774 gồm 56 đại biểu của 12 bang, trừ bang Gioócgia. Những đại biểu đều thuộc thành phần tư sản, địa chủ và trại chủ giàu có. Trong Hội nghị xảy ra cuộc đấu tranh giữa 2 phái ôn hòa và cấp tiến. Phái cấp tiến đứng đầu là đại biểu bang Masaxuxét và phái ôn hòa đứng đầu là đại biểu bang Penxinvania. Đại hội đã ra bản “Tuyên ngôn về quyền hạn và khiếu nại” (Declaration of Rights and Grievances). Tuyên ngôn đòi quyền đánh thuế do thuộc địa quyết định, đòi xóa bỏ những luật cấm vô lý của vua Anh và Quốc hội Anh đối với thuộc địa. Để biểu lộ sự quyết tâm, đại biểu các bang nhất trí hành động tẩy chay hàng Anh trong tất cả các bang.

Hội nghị lục địa lần I như một biểu tượng độc lập và thống nhất, của các thuộc địa trong cuộc đấu tranh vì một mục đích chung. Quốc hội Anh không đáp ứng một yêu cầu nào của Hội nghị. Họ cho rằng quyền làm luật cho thuộc địa là quyền của chính quốc. Chính phủ Anh tiếp tục ban hành những đạo luật mới như cấm các thuộc địa Bắc Mỹ buôn bán trực tiếp với các nước khác, cấm ngư dân đánh cá ở ven biển v.v… Thái độ đó làm cho mâu thuẫn thêm gay gắt. Chiến tranh ngày càng tới gần. Cuối năm 1774 đầu 1775, cả hai bên đều đẩy mạnh công việc chuẩn bị chiến tranh. Nhân dân ở các bang Bắc Mỹ hăng hái chuẩn bị võ trang, chiêu mộ nghĩa quân, xây dựng các kho vũ khí. Ngày 19-4-1775, quân Anh tiến đánh chiếm kho vũ khí của nhân dân ở Côncoốc đã bị giết hơn 200 tên. Cuộc xung đột kích thích nhân dân toàn Niu Inglân, Bôxtơn đứng dậy chống lại quân Anh.

b) Hội nghị lục địa lần thứ II (1775)

Ngay khi chiến tranh bùng nổ, sự phân hóa trong cư dân xảy ra một cách mạnh mẽ. Đại bộ phận nông dân, nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của tư sản cách mạng đã đứng về một phía, chống lại lực lượng Anh.

Giai cấp tư sản thương nghiệp và công nghiệp miền Bắc muốn tự do mở rộng thị trường trong và ngoài nước, phát triển kinh tế đã tập hợp thành cánh tả của phái Uých, chủ trương đấu tranh giành quyền làm chủ, cắt đứt liên hệ với chính quốc. Bộ phận cánh hữu của phái Uých bao gồm tư sản kinh doanh ruộng đất, chủ nô của miền Nam đều muốn mở rộng về phía tây dãy núi Alêgarit và muốn cắt đứt quan hệ với chính quốc để không phải trả những món nợ lớn cho thương nhân Anh. Họ lợi dụng nhân dân để đấu tranh vì lực lượng bản thân không đủ mạnh, nhưng họ không muốn quần chúng hoạt động theo yêu cầu dân chủ triệt để.

Đối diện với lực lượng cách mạng là phái bảo hoàng Tôri. Họ gồm thống đốc các bang, quan tòa, những nhân viên chính quyền thuộc địa, địa chủ, tư sản thương nghiệp có quan hệ với các công ty chính quốc, đại tư sản chủ hãng thương thuyền vốn có quan hệ với công ty Anh, những tăng lữ giáo hội Anh. Nói chung, đó là bộ phận có quan hệ về quyền lợi với chính quốc.

Hội nghị lục địa lần thứ II họp ngày 10-5-1775 nhằm mục đích giải quyết những vấn đề cụ thể của chiến tranh. Hội nghị quyết định thành lập “Quân đội lục địa”, bổ nhiệm Oasinhtơn – sĩ quan người Viêcginia làm chỉ huy. Hội nghị kêu gọi nhân dân tự nguyện tham gia đóng góp xây dựng quân đội.

Chính quyền Anh quyết tâm đàn áp thuộc địa, tăng cường quân đội. Chúng tuyên bố dùng chính sách vũ lực phong tỏa lục địa, thông qua ngân sách chiến tranh. Quân số tăng lên 55.000 được đưa sang ngay Bắc Mỹ. Quân lính Anh vốn không tình nguyện sang đánh nhau ở Bắc Mỹ, vua Anh buộc phải dùng những người lính Hétxơ (Hesse) đánh thuê. Nhân dân Bắc Mỹ căm ghét lính Hétxơ và mối mâu thuẫn với quân Hétxơ càng gay gắt. Yếu tố tâm lý đó càng làm nhân dân thuộc địa căm ghét vua Anh. Những người Bắc Mỹ đã ý thức được nền độc lập khẩn thiết của mình. Hội nghị lục địa lần thứ II đi đến quyết nghị xác định quyền độc lập, tự do của Bắc Mỹ.

c) Tuyên ngôn độc lập của Hợp chúng quốc Mỹ (1776)

Xu hướng độc lập đã được các đại biểu như Giôn Adam (John Adams), R.H. Li (R.H Lee) đề nghị và Hội nghị chấp thuận. Một Ủy ban 5 người đứng đầu là Giépphécxơn được ủy quyền thảo Tuyên ngôn độc lập và Hội nghị đã long trọng công bố ngày 4 tháng 7 năm 1776.

Nội dung cơ bản của Tuyên ngôn là lời tuyên bố các quyền tự do dân chủ tư sản và khẳng định nền độc lập của các bang ở Bắc Mỹ. Bản tuyên ngôn nêu rõ: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã ban cho họ những quyền không thể tước bỏ. Trong những quyền ấy có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tuyên ngôn khẳng định chỉ nhân dân mới có quyền thiết lập chính quyền, và hủy bỏ chính quyền khi nó đi ngược quyền lợi của quần chúng. Bản tuyên ngôn lên án vua Anh và long trọng tuyên bố quyền độc lập của các quốc gia, quyền gia nhập liên minh, buôn bán, ký kết hiệp ước v.v… Tuyên ngôn là một văn kiện có tính chất dân chủ tự do, thấm nhuần tinh thần tiến bộ thời đại. Nó nêu cao nguyên tắc chủ quyền của nhân dân khi giai cấp tư sản bắt đầu thực hiện nhiệm vụ phát triển xã hội.

Tuy nhiên, Tuyên ngôn cũng không tránh khỏi tính hạn chế. Tuyên ngôn không có điều khoản thủ tiêu chế độ nô lệ, không nghiêm cấm việc buôn bán nô lệ, vì các chủ nô bang Carôlinna nam, Gioócgia và thương gia buôn bán nô lệ ở miền Bắc phản đối. Mặc dù vậy, bản Tuyên ngôn độc lập của Hợp chúng quốc ra đời là một tiến bộ lớn lao, ghi nhận những mong muốn dân chủ của quần chúng.

Ngày 7-10-1776 Hội nghị thông qua bản các điều khoản của liên bang. Đây chưa phải là bản Hiến pháp nhưng nó nêu lên tính tự trị của các bang trong cộng đồng chính phủ chung. Đó là cái nền chung cho việc xây dựng mối quan hệ khu vực và trung ương trong 13 bang thuộc địa cũ.

Vấn đề bức thiết lúc bấy giờ là chiến tranh và chiến thắng.

d) Thắng lợi bước đầu của cách mạng

Cuộc đấu tranh của nhân dân Mỹ gặp nhiều điều bất lợi: quân đội trang bị thô sơ, thiếu lực lượng hải quân. Người chỉ huy chưa được đào tạo. Tuy nhiên đứng về nhân dân Mỹ thì đó là cuộc chiến tranh chính nghĩa được nhân dân ủng hộ lại tiến hành trên đất Mỹ. Nó huy động mọi tầng lớp nhân dân, có đến hàng ngàn nô lệ da đen tham gia chiến tranh và đã chiến đấu rất anh dũng. Cuộc chiến đấu ở bang Niu Oóc đã có hàng ngàn người da đen hy sinh. Quân khởi nghĩa đã sử dụng chiến thuật chiến tranh du kích. Tuy vậy, quân khởi nghĩa lúc này số lượng quá ít, trang bị lại quá nghèo nàn, nên đến mùa đông 1776 quân chủ lực nghĩa quân trong tay Oasinhtơn chỉ còn không quá 3.000 người.

Ngày 10-5-1776 một đội quân khởi nghĩa đã chiếm Ticondêrôga, tịch thu được một kho vũ khí có cả trọng pháo. Ngày 17-6-1775, quân Anh đánh bại nghĩa quân ở Băncơ Hin, gần Bôxtơn, nhưng quân Anh đã phải trả một giá rất đắt. Cũng trong năm 1775, quân đội cách mạng của Oasinhtơn bị quân Anh đánh bật khỏi Long Ailan và Manháttan, phải rút về Niu Giớcxi.

Mùa xuân năm 1777, Oasinhtơn bị thất bại ở Giécmantao. Quăn Anh định mở cuộc tấn công lớn bao vây quét sạch nghĩa quân của Oasinhtơn, nhưng bị nghĩa quân đánh tan ngày 17-10-1777. Quân Anh bị thất bại lớn ở Saratôga, tuớng Anh là Bớcgôn phải đầu hàng.

Chiến thắng Saratôga có ý nghĩa như một bước ngoặt của lịch sử chiến tranh giành độc lập ở Bắc Mỹ. Đối với lực lượng nghĩa quân đây là lời tuyên bố khả năng lớn mạnh và chiến thắng. Trên mặt trận ngoại giao, Pháp lợi dụng thời cơ nhảy vào cuộc chiến để trả thù Anh đã cướp mất Canada. Những chuyến tàu chở vũ khí và cung cấp đạn dược đã lên đường sang Bắc Mỹ. Ngày 6 tháng 2 năm 1778, hiệp định liên minh giữa Hoa Kỳ và Pháp được ký kết và tuyên bố chỉ ký hòa ước với Anh khi Anh thừa nhận nền độc lập của 13 bang thuộc địa.

Liên minh chống Anh được nhiều nước châu Âu tham gia. Tây Ban Nha, Hà Lan cũng lần lượt bắt tay với Hợp chúng quốc vào năm 1779, 1781.

Nước Anh bị cô lập không còn đủ khả năng khống chế trên biển. Pháp đã nhân thời cơ đưa hạm đội hải quân và quân đội tình nguyện giải phóng dưới quyền chỉ huy của tướng Rôsămbô (Rochambeau) sang chiến đấu cùng nhân dân Bắc Mỹ.

2. Giai đoạn II của cuộc chiến tranh. Cách mạng thắng lợi

Những năm đầu sau trận Saratôga tình hình chiến sự vẫn chưa có gì đổi thay lớn. Quân Anh còn mạnh, đủ sức chống đỡ trên biển và đất liền.

Tháng 12-1778, bang Gioócgia bị quân Anh chiếm đóng. Tháng 51779, quân Anh đánh bại nghĩa quân, chiếm Carôlinna nam. Mùa hè 1780 đã trôi qua như một thử thách cuối cùng đẩy gian khổ của nghĩa quân. Ngày 12 tháng 5 quân Anh chiếm hải cảng Saclettơn (Charleston) miền

Carôlinna nam, một cánh quân của những người khởi nghĩa đông tới 6.000 bị bắt làm tù binh. Ngày 16 tháng 8 năm 1780, tướng Anh là Coócoalít đánh tiêu diệt một cánh nghĩa quân ở Camđen.

Nhưng nghĩa quân đã lấy lại dũng khí, Oasinhtơn quyết định dùng tổng lực của hải quân, bộ binh, pháo binh đánh trận tấn công quyết định ở Yoóctao. 8.000 quân của Coócoalit đồn trú trên bờ sông Yoóc đã bị hạm đội của quân Pháp chặn đường rút và bị quân của Oasinhtơn và Rôsămbô bao vây. Không thể kháng cự và hết đường tháo chạy, Coócoalit cùng 8.000 quân phải đầu hàng ngày 19-10-1781.

Chiến thắng Yoóctao đã đánh tan hy vọng cuối cùng của thực dân Anh, đồng thời, cổ vũ nghĩa quân và nhân dân Bắc Mỹ một cách mạnh mẽ.

Phong trào phản chiến trong quần chúng nhân dân ở chính quốc cũng phát triển mạnh.

Chiến tranh còn kéo dài thêm một thời gian nữa nhưng nhìn chung kết cục đã khá rõ. Thủ tướng Anh mới lên là Rốckinhham đã nhận đàm phán với Bắc Mỹ. Đại biểu Bắc Mỹ gồm Bengiamin Phlanklin, Giôn Ađam và Giôngiay. Hội nghị được tiến hành bí mật vì Bắc Mỹ không muốn công khai phạm lời cam kết với Pháp là không ký một thỏa ước với kẻ thù chung nếu không có sự thỏa thuận của đồng minh. Thực ra Bắc Mỹ cũng nghi ngờ Pháp, cho rằng họ ngăn trở việc mở rộng phạm vi sang miền châu thổ sông Mitxixipi và ưu đãi quyền lợi cho Tây Ban Nha, ảnh hưởng đến Bắc Mỹ.

Hiệp Ước Vécxai đã ký ngày 3-9-1783. Theo điều khoản của hiệp ước, nước Anh thừa nhận nền độc lập của các thuộc địa ở Bắc Mỹ, giao cho Hoa Kỳ cả miền Tây Mitxixipi rộng lớn. Anh trả cho Tây Ban Nha Phloriđa.

Hiệp ước Vécxai đánh dấu thắng lợi của cuộc đấu tranh giành độc lập tự do của nhân dân Bắc Mỹ. Nó tuyên bố sự thắng lợi của một cuộc cách mạng mở đường cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển. Một quốc gia mới ở Bắc Mỹ ra đời, đó là Hợp chúng quốc Mỹ (United States America) mà ta thường gọi là nước Mỹ hoặc Hoa Kỳ.

III – Nước Mỹ sau khi độc lập

1. Hậu quả của chiến tranh

Cuộc chiến tranh đã để lại một hậu quả to lớn. Nước cộng hòa vừa mới ra đời phải đương đầu với những thử thách lớn về kinh tế, chính trị và xã hội. Chính quyền hoàn toàn nằm trong tay giai cấp tư sản, thương gia, chủ nô, chủ đồn điền. Nhân dân lao động là người chịu đựng hy sinh trong chiến tranh lại đồng thời là người phải gánh nặng tai họa sau chiến tranh. Số nợ của liên bang lên tới 56 triệu đôla và nợ của các tiểu bang tới 18 triệu. Nền kinh tế sau chiến tranh không ổn định, nạn lạm phát gây rối loạn thị trường. Thuế má tăng, hàng ngàn người thất nghiệp, cuộc sống không được bảo đảm.

Trong những năm 80 thế kỷ XVIII, các cuộc nổi dậy ngày càng nhiều hơn. Binh lính cũng nổi dậy chống lại bọn chỉ huy và chính quyền. Họ đòi bọn sĩ quan phải tôn trọng và phải đáp ứng đòi hỏi quyền lợi của họ. Phong trào đấu tranh của các trại chủ cũng gia tăng vì bị phá sản trước sự phá giá của đồng tiền, không có cách gì kinh doanh và bảo đảm thuế má.

Năm 1786, một “phácmơ” nghèo đã từng phục vụ trong quân đội là Đanien Sêxơ (17471825) đã tập hợp được 2.000 người chống lại chính quyền ở bang Masaxuxét. Họ tấn công công binh xưởng ở Spơringphin, nhưng bị thất bại. Đông đảo nông dân ở Niu Inglân và Niu Hămoai nổi dậy hưởng ứng. Phong trào kéo dài từ mùa hạ năm 1786 đến mùa xuân năm 1787 với chủ trương: phân chia ruộng đất công bằng, xóa bỏ nợ nần, xét xử công minh. Nguyên tắc đề ra của họ là: thắng lợi nhờ công sức của mọi người thì quyền sở hữu đất đai phải thuộc về tất cả.

Cuộc khởi nghĩa lan rộng sang các bang. Hàng vạn quần chúng đứng lên đòi quyền dân chủ. Nhưng chính quyền tư sản đã huy động lực lượng quân đội đàn áp. Đanien Sêxơ cùng 13 chiến hữu bị bắt và bị đi đày.

Cuộc đấu tranh giành đất đai trở thành nội dung cụ thể trong tiến trình cách mạng. Cách mạng tuyên bố thủ tiêu các hình thức chiếm hữu phong kiến và tước danh quý tộc; bãi bỏ chế độ lĩnh canh cha truyền con nối. Đến năm 1791 bỏ quyền thế tập con trưởng.

Nhưng vấn đề đặt ra là việc mở rộng vùng đất miền Tây, mở mang con đường lập trang trại của các trại chủ, xóa bỏ luật cấm di thực của nhà vua. Trong thời gian 6 năm chiến tranh đã có tới 25.000 dân kéo đi lập nghiệp ở vùng đất bên kia dãy núi Aliganit. Dân tự do Bắc Mỹ đã dùng biện pháp di thực mạnh mẽ để phá vỡ chế độ phong kiến và mở đường đi lên chủ nghĩa tư bản. Nhưng nhà nước tư sản đã trực tiếp chi phối ruộng đất phía tây Aliganit.

Năm 1785 chính phủ đã quyết định bán lại đất đai. Theo điều luật năm 1787, người ta đem chuyển nhượng từng ô đất rộng 640 acrơ với giá tiền hơn 1000 đôla. Như vậy chỉ có chủ đồn điền mới có khả năng mua được. Đến năm 1800, chính phủ buộc phải ra đạo luật cho phép bán những phần đất bé hơn 160 acrơ đến 320 acrơ và được trả tiền dần sau khi trả trước 1/4 giá đất. Những “phácmơ” nhỏ nhờ vậy có khả năng mua được ruộng đất.

Như vậy, cuộc cách mạng 1775-1783 đã khẳng định con đường phát triển kinh tế nông nghiệp theo chế độ “phácmơ”. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và cuộc cách mạng ruộng đất thống nhất trong một quá trình tiến hành. Điều này chứng tỏ nhu cầu cách mạng ruộng đất là một yếu tố quan trọng chi phối tiến trình cách mạng.

Chính sách kinh tế quan trọng thứ hai của nhà nước Mỹ là việc phát hành tiền giấy. Việc phát hành tiền giấy mang theo ý nghĩa độc lập về chính trị đồng thời giải quyết nguồn tài chính thiếu hụt. Số tiền phát hành ở các bang lên tới 209 triệu đôla. Mặc dù đồng tiền mất giá nhưng nó lấy lại hơi sức cho cách mạng, góp phần củng cố và mở rộng tài chính. Năm 1786 điều luật tiêu chuẩn hóa tiền tệ ở Mỹ được ban hành. Hệ thống ngân hàng cũng được thành lập.

Về ngoại thương, năm 1778, Mỹ ký điều ước liên minh với Pháp và mở rộng việc buôn bán; sau đó ký với Phổ, Thụy Sĩ.

Nhưng đặc điểm quan trọng của chính sách kinh tế sau cách mạng 1775-1783 là việc khuyến khích phát triển công nghiệp. Đây chính là cơ sở để thủ tiêu triệt để chủ nghĩa thực dân, bảo vệ thành quả cách mạng. Nền tự chủ về chính trị và kinh tế của nước Mỹ về cơ bản phải dựa trên nền công nghiệp mới phát triển.

Nhà nước chú ý khuyến khích các ngành sản xuất công nghiệp tự giải quyết yêu cầu của sản xuất và tiêu dùng. Ngành sản xuất sắt, thép, vũ khí, hàng dệt được khuyên khích. Việc chế tạo giấy, kính v.v… đều được cải tiến. Ngành sản xuất hàng len, hàng lanh, dệt vải phát triển mạnh. Đặc biệt công nghiệp sản xuất vũ khí, thuốc súng, hàng quân nhu, công nghiệp cán thép được chú trọng đẩy mạnh. Năm 1778 đại hội lục địa cho xây dựng xưởng đúc đại bác ở Sping-phin. Công nghiệp kéo sợi dệt vải phục vụ cho quân nhu cũng được cải tiến xây dựng ở Connếchticớt, Masaxuxét v.v… Tuy vậy sản phẩm công nghiệp của Mỹ vào những năm 80 cũng chỉ trị giá chừng 50 triệu đôla. Sự cạnh tranh của công nghiệp Anh vẫn còn là trở ngại lớn trên con đường phát triển công nghiệp.

Cách mạng Mỹ đã có một số chính sách tiến bộ về kinh tế xã hội, song vì quyền lợi kinh tế của giai cấp tư sản chủ nô, chế độ nô lệ đã không bị thủ tiêu, chế độ nô lệ đồn điền ở miền Nam vẫn tồn tại.

2. Hiến pháp 1787 và bản chất giai cấp tư sản

Trong cuộc đấu tranh chống thực dân Anh, 13 bang thuộc địa đã có những điều khoản liên hiệp cần thiết được phê chuẩn năm 1781. Các tiểu bang còn giữ nhiều quyền lớn, đặc biệt quyền thu thuế và buôn bán. Quyền hành pháp và tư pháp của Hội đồng lục địa chưa đủ bảo đảm cho sự điều hành kinh tế, quản lý thống nhất.

Sau khi thắng lợi, việc xây dựng một chính quyền trung ương đáp ứng nhu cầu quản lý xã hội đã thúc đẩy Hội nghị liên bang khai mạc vào tháng 5 năm 1787. Sau bốn tháng thảo luận, Hội nghị đã đưa ra một dự thảo Hiến pháp có vị trí hết sức quan trọng trong lịch sử nước Mỹ.

Dưới quyền chủ tọa của Oasinhtơn, các đại biểu đã thỏa thuận biến nước Mỹ từ một liên bang nhiều quốc gia thành một quốc gia liên bang.

Nguyên tắc tổ chức chính quyền là sự phân lập 3 quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.

Tổng thống, nhiệm kỳ 4 năm là người nắm quyền hành pháp cao nhất, được bầu cử theo lối gián tiếp, qua hai cấp. Tuyển cử đoàn (còn gọi đại cử tri) gồm những người được bầu ra để đi bầu tổng thống. Số lượng bằng tổng số thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ. Là người có quyền hạn lớn, quyền chỉ huy quân đội, tổng thống còn có quyền phủ quyết những vấn đề liên quan đến quyền lập pháp. Tập trung trong tay một quyền lực lớn, bộ máy chính phủ gồm các bộ trưởng và quan tòa Liên bang đều do Tổng thống quyết định bổ nhiệm.

Quyền lập pháp thuộc về Nghị viện gồm hai viện: Thượng viện và Hạ viện. Hạ viện do dân chúng bầu lên, số đại biểu thay đổi theo dân số các tiểu bang. Thượng viện gồm đại biểu bầu lên, mỗi tiểu bang 2 người không kể dân số nhiều hay ít. Cứ hai năm một lần, thành phần Thượng viện phải thay một phần ba. Hạ viện thì hai năm bầu lại một lần. Nghị viện hạn chế quyền lực đối với Tổng thống bằng số phiếu đa số trên 2/3 số nghị sĩ của hai viện về những quyết án.

Cơ quan tư pháp tối cao gồm những thành viên là luật sư do Tổng thống chỉ định và được Thượng nghị viện đồng ý. Tòa án có quyền giải thích các đạo luật, hiệp ước nhưng cũng có quyền tuyên bố sự mất hiệu lực của các văn bản đó.

Quyền tuyển cử phản ánh tính chất giai cấp và kỳ thị chủng tộc. Những người da đen nô lệ và người da đỏ bị tước đoạt hết quyền chính trị. Còn những người da trắng phải có tài sản mới được quyền ứng cử, bầu cử kèm những điều kiện thuế tài sản nhất định. Phụ nữ không được đi bầu. Những quy định khắt khe như vậy làm cho chỉ có chừng 4,8% dân số được tham gia bầu cử,

Hiến pháp được phê chuẩn vào tháng 7-1788 và có hiệu lực từ ngày 4-3-1789. 12 điều khoản quy định quyền tự do dân chủ của công dân được bổ sung.

Oasinhtơn được bầu làm Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ.

IV – Tính chất và ý nghĩa của cuộc chiến tranh cách mạng Bắc Mỹ

Cách mạng tư sản Mỹ được tiến hành dưới hình thức một cuộc chiến tranh giành độc lập cho nhân dân Bắc Mỹ. Đó là cuộc “chiến tranh vĩ đại, chiến tranh thực sự giải phóng, thực sự cách mạng”. Nhiệm vụ của cuộc cách mạng đề ra là xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa. Những yêu cầu rộng lớn về ruộng đất, về công thương nghiệp đã đặt cho cuộc cách mạng này nhiệm vụ chống ách thống trị của thực dân Anh, chống phong kiến và xây dựng quan hệ mới, trật tự mới. Nhưng muốn hoàn thành nhiệm vụ trên thì việc đầu tiên là phải đấu tranh xóa bỏ nền thống trị phi lý của nước Anh, xây dựng một quốc gia độc lập của dân tộc Bắc Mỹ đang hình thành.

Lực lượng tham gia có vai trò quyết định cuộc cách mạng là quần chúng nhân dân lao động. Những người nô lệ, công nhân, “phácmơ” nghèo, nông dân không có đất đã tham gia nhiệt tình cuộc chiến tranh cách mạng. Họ góp của cải, sức lực để tạo nên thắng lợi của cách mạng. Là những người phục vụ trong đạo quân khởi nghĩa, trong đơn vị pháo binh, hải quân, công binh, hậu cần, du kích, họ đã chiến đấu và lao động hết lòng. Chính mâu thuẫn giữa thuộc địa và chính quốc, đặt nhiệm vụ giải phóng tự do lên hàng đầu đã trở thành ngọn cờ tập hợp mọi tầng lớp xã hội Bắc Mỹ đoàn kết chiến đấu cho độc lập tự do. Nó làm cho phong trào cách mạng mang tính chất quần chúng.

Nhưng cuộc cách mạng tư sản Mỹ trong thời kỳ lịch sử này là cuộc cách mạng xã hội do giai cấp tư sản lãnh đạo. Với tính chất đại diện cho quan hệ xã hội mới tiến bộ, với tính chất ưu thắng do điều kiện xã hội lịch sử quy định, giai cấp tư sản Mỹ, giai cấp điền chủ đã trở thành bộ phận lãnh đạo cuộc cách mạng. Những chính sách kinh tế xã hội phản ánh tính chất bảo vệ quyền lợi giai cấp tư sản và chủ nô một cách rõ rệt. Đất ruộng vẫn nằm trong tay bọn đại tư sản, đại điền chủ. Chế độ nô lệ không bị xóa bỏ, quyền tuyển cử, bầu cử và tự do xã hội hết sức hạn chế.

Cuộc cách mạng tư sản Mỹ có ý nghĩa lịch sử lớn lao. Nó là cuộc cách mạng tư sản đầu tiên nêu lên yêu cầu giải phóng dân tộc. Sự tuyên chiến quyết liệt và giành thắng lợi vẻ vang đối với chế độ thực dân Anh đang thời kỳ phát triển đã có ý nghĩa lớn trong lịch sử.

Bản Tuyên ngôn độc lập của cách mạng Mỹ đã trở thành ngọn cờ tự do với những nguyên lý bất hủ, có ảnh hưởng lớn lao đối với tiến trình cách mạng và giải phóng. Mục tiêu của cuộc đấu tranh đã kích thích bao tấm lòng hào hiệp vì nghĩa của nhiều người trong nhiều quốc gia. Nhiều chiến sĩ dân chủ của Anh, Pháp, Ba Lan… đã tình nguyện tham gia chiến đấu vì ngọn cờ độc lập tự do của Mỹ. Xanh Ximông là một người tiêu biểu. Cuộc cách mạng này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh của nhân dân châu Mỹ và châu Âu.

Đối với nhân dân Mỹ, cuộc cách mạng tư sản Mỹ đã có ý nghĩa mở đầu sự thành lập một quốc gia, đem lại sự tiến bộ cho dân tộc. Với chính sách tịch thu ruộng đất của bọn địa chủ phong kiến phản động, xóa bỏ đạo luật cấm di cư chiếm đất của vua Anh, cuộc cách mạng tư sản Mỹ đã mở một con đường phát triển tư bản nông nghiệp riêng của mình. Chế độ “phácmơ” đem lại cho bộ mặt kinh tế nông nghiệp Mỹ sự phồn vinh mà chỉ vài chục năm sau đã giành vị trí hàng đầu trong sự phát triển của thế giới về nông nghiệp.

Đồng thời cuộc cách mạng tư sản đã tạo điều kiện phát triển rộng lớn cho công thương nghiệp tư bản Mỹ. Một nước tư bản trẻ ra đời, kế thừa những thành tựu cách mạng kỹ thuật mới trên cơ sở tiềm năng phát triển to lớn của mình, do đó đã đạt được những tốc độ phát triển sản xuất cực kỳ nhanh chóng trong thế kỷ sau.

Nguồn: Lịch sử thế giới cận đại, Vũ Dương Ninh – Nguyễn Văn Hồng, Nhà xuất bản Giáo dục

Rate this post

Leave A Reply

Your email address will not be published.