Ca dao – Dân ca là gì?
Nội Dung
1. Khái niệm ca dao – dân ca
Trong giáo trình văn học dân gian của Đại học quốc gia Hà Nội, ông Lê Chí Quế có trình bày lịch sử khái niệm ca dao dân ca, bắt đầu từ nguồn gốc Hán – Việt. “Ca” tức là bài hát có hòa với nhạc, còn “dao” có nghĩa là lời của bài hát đó. Và sở dĩ có hiện tượng chiết tự khái niệm “ca” và “dao” bởi lẽ trong thư tịch cổ Trung Quốc chỉ có khái niệm “ca” và “dao” mà không có thuật ngữ “ca dao dân ca” như các công trình nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam vẫn thường gọi.
Trong quyển giáo trình biên soạn về văn học Việt Nam – Việt Nam văn học sử yếu – ông Dương Quảng Hàm có nói ca dao (ca: hát, dao: bài hát không có chương khúc) là những bài hát ngắn lưu hành trong dân gian, thường tả tính tình, phong tục của người bình dân. Có lẽ đây chỉ là một định nghĩa còn dừng lại ở mức nhận định chung chung sơ sài, nhằm để bước đầu phân biệt thể loại này với thể loại khác.
Bạn đang xem: Ca dao – Dân ca là gì?
Nhấn mạnh sự khác nhau của ca dao với phong dao (những bài ca phong tục), với đồng dao (những bài ca của trẻ con gắn với những trò vui của trẻ con), với tục ngữ (những câu tục ngữ mang hình thức lục bát của ca dao), nhóm tác giả Trần Vĩnh – Nguyễn Tấn Phát (Giáo trình ĐHSP – 1978) định nghĩa ca dao là những bài hát có hoặc không có chương khúc, sáng tác bằng thể văn vần dân tộc (thường là lục bát) để miêu tả, tự sự, ngụ ý và diễn đạt tình cảm. Ông Trần Hoàng (ĐH Huế) xác định khái niệm ca dao được sử dụng rộng rãi đầu thế kỷ XX, với hai loại ý kiến vẫn còn phiến diện. Một là ca dao có nguồn gốc ban đầu là dân ca, sau đó lời bài hát phát triển thành một thể thơ dân gian, vậy ca dao thật ra là phần lời của dân ca. Hai là ca dao là những câu mang tính chất trữ tình đậm đà được sáng tác theo phong cách riêng.
Còn dân ca là những bài hát dân gian do quần chúng nhân dân sáng tác, diễn xướng và lưu truyền. Đó là những bài hát có hoặc không có chương khúc, phổ biến trong dân gian ở từng vùng, miền, có quan hệ với sinh hoạt văn hóa tinh thần ở đó (Quan họ Bắc Ninh, hát dặm Nghệ Tĩnh, Hò Đồng Tháp…) hoặc lưu hành rộng rãi ở nhiều vùng có nội dung trữ tình và có giá trị đặc biệt về âm nhạc. Ở dân ca, phần lời và phần nhạc điệu cùng thể thức diễn xướng gắn bó trong một chỉnh thể thống nhất. Dù định nghĩa riêng từng khái niệm nhưng ta thấy toát lên từ các ý kiến nêu trên là sự quan tâm đến mối quan hệ của ca dao và dân ca. Nói như ông Hoàng Tiến Tựu, dân ca và ca dao là hai khái niệm phản ánh hai thực thể khác nhau nhưng có quan hệ với nhau rất mật thiết.
Như vậy có thể thấy rõ các định nghĩa trên có xu hướng tách rời hai khái niệm ca dao và dân ca. Có thể xem đó là cách tiếp cận thứ nhất. Một cách tiếp cận khác thường định nghĩa đồng nhất ca dao và dân ca. Tức là ca dao chính là một tên gọi khác của dân ca và ngược lại.
Tuy nhiên đáng chú ý chính là những định nghĩa dùng thuật ngữ kép “Ca dao dân ca” của các tác giả của sách giáo khoa văn 10, tập 1. Ông Chu Xuân Diên cho rằng Ca dao dân ca là tên gọi chung các thể loại trữ tình dân gian kết hợp lời thơ và giai điệu nhạc, nội dung miêu tả những tâm trạng, những tư tưởng và tình cảm của con người. Phần lớn lời thơ của dân ca được gọi là ca dao. Mặt khác, ca dao không chỉ là lời hát, mà còn là lời nói (dùng xen vào lời nói thường).
Tương tự, ông Đỗ Bình Trị định nghĩa dân ca – ca dao là tên gọi chung các thể loại trữ tình dân gian. Trong diễn xướng đó là những bài ca, là thơ được hát lên theo những giai điệu nhạc nhất định. Các thể loại dân ca có bản chất chung là trữ tình (tức là chủ yếu biểu hiện những tâm trạng, những cảm nghĩ của con người) và khác nhau về chức năng sinh hoạt là chính. Và theo ông, thuật ngữ ca dao và dân ca hoàn toàn tương đương với nhau.
Hiểu theo nghĩa rộng, đây là một khái niệm bao hàm ba yếu tố gắn bó chặt chẽ với nhau.
– Đó là lối hát (tức là hình thức sinh hoạt ca hát hay phương thức diễn xướng), có hát trong lễ hội và hát trong ngày thường (sinh hoạt, lao động), có hát trơn và hát kèm theo (kèm theo khí nhạc, múa, trò chơi), có hát cuộc (hát lề lối) và hát vặt, có hát theo “bọn” (hát tập thể) và hát một người……
– Thứ hai là điệu hát (tức là làn điệu nhạc của những câu hát) bao gồm cả hệ thống phong phú, từ những điệu hát mộc mạc như hát – nói – kể… đến những điệu hát đã đạt đến trình độ nghệ thuật cao (đã thành giai điệu như lý, hò, hát. ).
– Thứ ba là lời hát (tức là lời ca đã tước bỏ tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi) còn gọi là lời thơ. Lời của ca dao chính là thơ. Từ đó, ông Đỗ Bình Trị rút ra nhận định rằng, khi nghiên cứu , giới thiệu “những câu hát – bài hát dân gian” một cách toàn vẹn hoặc chỉ riêng về mặt âm nhạc, ta gọi đó là dân ca. Còn khi nghiên cứu, giới thiệu chỉ riêng phần lời của những câu hát – bài hát ấy, ta gọi đó là ca dao.
Để phù hợp với tình hình học tập của sinh viên khoa Ngữ văn, nói đến đối tượng nghiên cứu ca dao dân ca là chỉ nói đến bộ phận nghệ thuật ngôn từ (ca dao) nhưng nó phải đặt trong mối quan hệ khăng khít với làn điệu âm nhạc, nghệ nhân biểu diễn, thời gian và không gian diễn xướng.
2. Nội dung phản ánh của ca dao dân ca Việt Nam
Nội dung của ca dao dân ca Việt Nam vô cùng phong phú và đa dạng. Khi đi vào một số thể loại của ca dao dân ca, chúng tôi cũng có nhắc đến nội dung của một số tiểu loại tiêu biểu. Ở đây chúng tôi chỉ điểm qua một vài nội dung cơ bản của ca dao dân ca trữ tình.
Ca dao dân ca phản ánh khát vọng chinh phục thế giới tự nhiên, phản ánh quá trình lao động sinh tồn của nhân dân từ xưa. Đồng thời ca dao là sự phản ánh đầy đủ và sâu sắc cuộc sống lao động
Ca dao dân ca phản ánh một cách đa dạng những tình cảm phong phú của thế giới nội tâm con người. Đó là những tâm tư tình cảm trong những phạm vi khác nhau (gia đình – xã hội) trong những lĩnh vực khác nhau (lao động, sinh hoạt…), trong những mối quan hệ khác nhau như đối với quê hương đất nước, đồng bào, trong đối nhân xử thế ngoài xã hội, trong quan hệ ruột rà máu mủ gia đình – đặc biệt là quan hệ tình yêu đôi lứa. Đây là nội dung lớn nhất, hay nhất và có đời sống sâu rộng nhất trong ca dao dân ca trữ tình nói chung
Ca dao dân ca còn phản ánh hiện thực lịch sử xã hội của dân tộc. Những tình cảm tự hào về truyền thống thông qua các nhân vật và sự kiện lịch sử; những cuộc kháng chiến và chiến thắng giặc ngoại xâm, những cuộc đấu tranh giai cấp gay gắt và quyết liệt…tất cả tạo nên một bức tranh sinh động đa dạng về chiều dài lịch sử nước nhà (bằng cả cảm hứng ca ngợi và phê phán). Và còn nhiều nội dung phong phú khác.
3. Đặc điểm thi pháp
a. Nhân vật trữ tình
Trong ca dao truyền thống, chủ thể trữ tình (tức tác giả – hiện thân trữ tình của quần chúng nhân dân) luôn luôn đồng nhất với nhân vật trữ tình (tức là nhân vật mà cảm nghĩ của nó được diến tả trong bài ca). Nhân vật đó, theo ông Đỗ Bình Trị chỉ có một số kiểu nhất định (giống như kiểu nhân vật trong truyện cổ tích).
Đó là cô gái và chàng trai trong quan hệ bè bạn, lứa đôi; Người vợ, người chồng, người mẹ, người con… trong đời sống gia đình; Người con gái, con dâu, người vợ trong gia đình gia trưởng; Người lính và người vợ lính trong cảnh ngộ ly biệt và xa cách; Người làm ruộng, người làm thợ, người dân chài và người trai đò trong lao động, sinh hoạt và trong quan hệ với xóm làng, quê hương, đất nước. Ta có thể nhận thấy qua tên chung và tên tập hợp của những nhân vật trữ tình trong ca dao, xu hướng của nhân dân muốn diễn tả những nét bản chất nhất của con người thời đại ấy.
Những nét bản chất này thể hiện một cách tập trung ở cảm hứng trữ tình chủ đạo trong ca dao, dù là chàng trai hay cô gái, người vợ hay người chồng, người làm ruộng hay làm nghề sông nước…nhưng nếu cảm nhận về thân phận mình là thấy buồn thấy khổ thì sẽ cất lên thành bài ca thở than về những khổ đau và bất hạnh của kiếp người; nêu cảm nghĩ về những người mình thương mến, những nơi thân thuộc mà thấy yêu thấy thương thì ắt sẽ cất lên thành bài ca ân tình ân nghĩa – tình gia đình, tình bạn bè, tình đôi lứa, tình quê hương xứ sở, đồng bào…. Chính vì thế, nói đến ca dao dân ca, người ta hay nhắc đến những câu hát than thân và những câu hát tình nghĩa của quần chúng nhân dân – những người lao động và bị áp bức trong xã hội cũ.
Nhân vật trữ tình thường gắn với những đại từ nhân xưng trong ca dao, những đại từ như anh, em, mình, ta, chàng, thiếp, tôi, người, qua, bậu. và kể cả những hình ảnh xưng hô ẩn dụ như mận, đào, trúc, mai, rồng, mây, trăng, gió….
Tất cả không hề có dấu ấn cá nhân nên dễ dàng gợi được sự đồng cảm sâu xa ở người đọc.
b. Kết cấu
Những hình thức kết cấu cơ bản:
Ca dao dân ca, xét chung, thường rất ngắn, ca dao dân ca trữ tình lại càng ngắn. Những bài ca dao hai dòng, bốn dòng chiếm số lượng lớn hơn cả, có những bài dài hơn thì cũng chỉ trên dưới mười dòng. Với một dung lượng ngắn như thế nhưng nếu đặt ra vấn đề kết cấu ở cách thức tổ chức thanh điệu, vần, nhịp…, tổ chức nội dung, cấu tạo ý, tứ, đoạn, mạch, dài, ngắn. thì phạm vi vấn đề nghiên cứu kết cấu ca dao sẽ rất rộng. Trước đây, một số nhà nghiên cứu đã tiếp thu từ ca dao cổ trong Kinh thi Trung Quốc để phân thành ba loại kết cấu (Phú, tỉ và hứng). Một số khác dựa vào hình thức đối đáp trong đại bộ phận ca dao dân ca để chia làm đối đáp một vế và đối đáp hai vế…. Tuy còn khác nhau khá nhiều về cách nhìn nhận, tiếp cận nhưng những ý kiến ấy góp phần tích cực cho việc tìm hiểu kết cấu ca dao. Trong giáo trình này, để sinh viên bước đầu tìm hiểu và có cái nhìn bao quát, chúng tôi tổng hợp hai ý kiến của hai nhà nghiên cứu văn học dân gian là ông Đỗ Bình Trị và ông Hoàng Tiến Tựu để trình bày một số hình thức kết cấu tiêu biểu.
Một là Lối đối đáp (hay là phương thức đối thoại). Đó là những lời trò chuyện trực tiếp bằng thơ ca (phần lớn là của các chàng trai, cô gái – chủ thể của những bài ca dao, đóng vai trò là nhân vật chính của cuộc đối đáp, trò chuyện). Điều này cũng là tất yếu bởi lẽ chiếm hầu hết trong kho tàng ca dao dân ca là mảng đề tài về tình yêu đôi lứa và tình cảm gia đình.
Búp sen lai láng giữa hồ
Anh muốn đưa tay ra bẻ sợ trong chùa có sư.
Có sư thì mặc có sư
Anh cứ đưa tay ra bẻ, có hư em bồi.
Hoặc:
Dầu mà không lấy được em
Anh về đóng cửa cài rèm đi tu
Tu mô cho em tu cùng
May ra thành Phật thờ chung một chùa
Trong một cuộc đối ca, tính chất đối đáp còn thể hiện rõ nét hơn:
Em đố anh từ Nam chí Bắc
Sông nào là sông sâu nhất,
Núi nào là núi cao nhất nước ta?
Anh mà giảng được cho ra
Thì em kết nghĩa giao hòa cùng anh.
-Sâu nhất là sông Bạch Đằng
Ba lần giặc đến ba lần giặc tan,
Cao nhất là núi Lam Sơn
Có ông Lê Lợi trong ngàn bước ra…
Nhưng trong kho tàng ca dao dân ca được sưu tầm, lại có rất nhiều những lời trò chuyện chỉ có “1 vế”. Tuy nhiên, vì bản thân bài ca ấy là một lời trò chuyện nên tự nó đã có đặc tính của kết cấu đối đáp.
Ước khi nao hợp lại một nhà
Chồng cày vợ cấy mẹ già đưa cơm.
Hoa thơm héo lại càng thơm,
Em giòn rách áo, đói cơm càng giòn.
Gặp đây anh nắm cổ tay
Anh hỏi câu này có lấy anh không ?
Cô kia cắt cỏ bên sông
Muốn sang anh ngã cành hồng cho sang.
Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi…
Hai là lối kể chuyện (còn được gọi là phương thức trần thuật). Mặc dù lối đối đáp được xem như là hình thức kết cấu đặc trưng của ca dao dân ca trữ tình nhưng lối đối đáp dù đa năng cũng không thể thích ứng với mọi lối hát điệu hát. Và điều quan trọng là cũng không có đủ khả năng biểu đạt hết những cảm hứng trữ tình phong phú, nhiều màu, nhiều vẻ, giàu sắc điệu của tất cả các nhân vật trữ tình trong ca dao. Cho nên, lối kể chuyện cũng được sử dụng như một hình thức kết cấu cơ bản. Cả hai nương tựa vào nhau và bổ sung cho nhau trong việc thực hiện chức năng “biểu hiện cảm hứng trữ tình của đời sống dân tộc” của ca dao dân ca. Tuy nhiên hình thức kể chuyện ở đây không hề giống như giọng kể trong các tác phẩm tự sự dân gian hay lối kể vè. Điều khác biệt rõ nét chính là nhân vật trữ tình trong ca dao tự kể câu chuyện của mình ( Vè, truyện tự sự là do người khác kể). Kế nữa là câu chuyện kể trong ca dao dân ca là câu chuyện tâm tình – một nỗi niềm được kể lễ hơn là một cảnh ngộ được thuật lại (trong khi những loại kể chuyện khác chỉ có thái độ của người kể với các sự kiện và nhân vật mà thôi). Ta đọc bài ca dao kể chuyện sau:
Ngang lưng thì thắt bao vàng
Đầu đội nón dấu, vai mang súng dài.
Một tay thì cắp hỏa mai
Một tay cắp giáo quan sai xuống thuyền.
Thùng thùng trống đánh ngũ liên,
Bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa.
Những lời trần thuật ở bốn câu thơ đầu chỉ để nhằm chuẩn bị cho con người tâm trạng của anh lính thú xuất hiện ở hai câu cuối cùng. Nhờ lối kể chuyện tinh tế, thân phận người lính – ở đây là cảnh ngộ và nỗi niềm – đã được diễn tả sâu sắc mà kín đáo hơn.
Hay:
Hôm qua anh đến chơi nhà,
Thấy mẹ nằm võng thấy cha nằm giường.
Thấy em nằm đất anh thương,
Anh đi mua gỗ đóng giường tám thang.
Như vậy trong phương thức trần thuật (kể chuyện) có cả phương thức miêu tả (mà là miêu tả theo cảm hứng trữ tình). Nhìn chung, những câu hát dân gian hướng về tình nghĩa, hoặc hát theo lề lối thường phù hợp với kết cấu đối đáp; còn những câu hát than thân, hoặc là những câu hát lẻ, hát vặt thường sử dụng hình thức kể chuyện. Bởi lẽ những nỗi niềm của các nhân vật trữ tình quen thuộc trong những câu hát than thân phải mượn lối kể chuyện mới dịu bớt đi những ẩn ức của tình cảm, tâm tư. Lối kể chuyện nhắc đến cảnh ngộ hơn là hoàn cảnh được kể. Câu chuyện kể trong bài ca, vì thế, thường không có “chuyện” mạch lạc theo kiểu kể sự đếm việc mà sự mạch lạc của nó lại ẩn trong logic của sự kể lể nỗi niềm.
Nhưng thật ra, thực tế ca dao dân ca cho thấy, trong không ít bài ca, có sự kết hợp giữa cả hai phương thức nêu trên. Tức là vừa đối đáp vừa kể chuyện, vừa độc thoại vừa ngầm hướng đến đối tượng để đối thoại, vừa miêu tả tự sự vừa trần thuật trữ tình…Ta có rất nhiều những bài ca như thế
-Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng anh tiếc lắm thay.
Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh không hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra?
-Trên trời có đám mây xanh
Chính giữa may trắng xung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây
Xây dọc rồi lại xây ngang
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân…
-Sáng ngày em đi hái dâu
Gặp hai anh ấy ngồi câu Thạch Bàn.
Hai anh đứng dậy hỏi han
Hỏi rằng: “Cô ấy vội vàng đi đâu?”
Xem thêm : Hao mòn tài sản cố định là gì?
Thưa rằng em đi hái dâu”
Hai anh mở túi lấy trầu cho ăn.
Thưa rằng: “Bác mẹ em răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người”
Ở những bài ca dao hay, thường có những kết cấu cân đối, hoàn chỉnh, kết hợp chặt chẽ các hình thức kết cấu một cách thật hài hòa mà độc đáo khéo léo.
Một vấn đề nổi bật trong ca dao dân ca có liên quan mật thiết đến kết cấu, đó là những công thức truyền thống. Nói một cách đơn giản, do điều kiện truyền miệng và nhu cầu ứng tác, nhân dân đã sử dụng những công thức có sẵn (những khuôn, những dạng) để tạo nên những đơn vị tác phẩm cùng một hệ thống. Ông Bùi Mạnh Nhị gọi những công thức truyền thống là “chìa khóa mở bí mật đặc trưng cấu trúc của bài ca trữ tình dân gian”. Viện sĩ Đ.X. Likhachôp nhận xét rất sâu sắc: ” Bài ca trữ tình dân gian là tấm gương được phản ánh trong một tấm gương khác…Đây là bài ca về bài ca”
Tấm gương khác ở đây chính là truyền thống, hát về bài ca chính là hát theo truyền thống. Văn bản bài ca trong điều kiện truyền miệng và ứng tác tập thể đã được xây dựng từ các công thức. Công thức vừa là một yếu tố bộ phận của bài ca vừa là một yếu tố truyền thống vượt ra ngoài phạm vi của văn bản – và về bản chất, nó không phải là sở hữu của riêng bất cứ bài ca nào. Thí dụ công thức gãy đàn trong các bài ca sau:
Đờn năm dây biết gãy dây nào
Cầm đàn gãy đủ năm dây
Sầu riêng em chịu từ ngày ước ao
Em thương anh dạ xót xa
Cầm đàn ra gãy biết là có nguôi
Như vậy công thức là giao điểm của truyền thống và bài ca. Và trong hệ thống công thức truyền thống thì các công thức mẫu đề đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Mỗi công thức mẫu đề có một tập hợp các công thức chi tiết thuộc các tiểu loại khác nhau về dung lượng, nội dung và hình thức. Ví dụ mẫu đề “Mười thương” (hoặc “mười yêu”) mẫu đề “Ước muốn – hóa thân”, “Thân em như…”, “Trên trời có…”, “Còn duyên… hết duyên…” ..v.v…Có thể nói, mỗi mẫu đề truyền thống là một chỉnh thể thống nhất. Nó là văn cảnh cụ thể, trực tiếp của bài ca.
Cấu trúc của bài ca là sự vận động từ công thức truyền thống này đến công thức truyền thống khác, trên cơ sở quy định chặt chẽ của mẫu đề.
Để làm sáng tỏ thêm thành phần các công thức của một mẫu đề và sự liên kết vận động của chúng trong bài ca, xin dẫn một ví dụ minh họa (Theo Bùi Mạnh Nhị – Công thức truyền thống và đặc trưng cấu trúc của ca dao dân ca trữ tình):
– Ước gì anh hóa ra hoa
Để em nâng lấy rồi mà cài khăn
Ước gì anh hóa ra chăn
Để cho em đắp em lăn em nằm…
– Ước gì mình biến ra ao
Ta biến ra cá bơi vào bơi ra
Ước gì mình biến ra hoa
Ta biến ra bướm bay ra bay vào…
Đây là hai bài ca dao khác nhau nhưng có chung chủ đề “ước muốn – hóa thân” Bài đầu là chỉ cháng trai hóa thân để được gần gũi người yêu. Bài hai là cả hai – chàng trai và cô gái đều ước muốn hóa thân để mãi mãi được sóng đôi bên cạnh nhau. Trên những phương diện không đồng nhất đó lại là những nét tương đồng. Đó là sự ước muốn hóa thân, sự gắn bó sum họp, sánh đôi hạnh phúc. Điều này làm cho công thức mẫu đề của ca dao là một tập hợp mở mà dựa vào đó, dân gian sẽ không ngừng sáng tạo. Trong khi đó, bài ca dao “Ước gì sông rộng một gang – Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi” cũng có cùng công thức “ước gì” nhưng lại không phải là mẫu đề “ước muốn – hóa thân” bởi đó là một ước muốn liên quan đến hoàn cảnh khách quan chứ không phải là một mong ước chủ quan. Như vậy nói một cách khác, rằng các mẫu đề khác nhau có những công thức khác nhau.
Sự thống nhất của các lối kết cấu:
Khi so sánh ca dao với thơ lục bát, người ta thường nêu nhận xét là “hầu hết ca dao đều ngắn hơn thơ”. Nhận xét này đúng nhưng chưa nói lên được thực chất của ca dao dân ca. Thật ra hình thức “ngắn” (hoặc “rất ngắn”) của ca dao chỉ là dấu hiệu của hình thức bên ngoài. Mỗi bài ca là một mạch cảm nghĩ âm vang thành câu hát cất lên hồn nhiên tự tâm hồn. Chúng rất tươi mát, chân thực, hàm súc và rất tự nhiên như hơi thở của đời sống. Và như vậy thì các hình thức kết cấu cơ bản của ca dao đều mang tính chất phiến đoạn, cô đúc.
Những bài không có kết cấu đối đáp là những lời trò chuyện trực tiếp bằng thơ ca. Những bài ca dao có kết cấu kể chuyện tuy không có “đối” và “đáp” nhưng cũng thấp thoáng có bóng dáng của hai nhân vật trò chuyện. Đó là trò chuyện gián tiếp, trò chuyện trong tâm tưởng. Chẳng hạn những bài hát ru phần lớn có kết cấu kể chuyện, nhưng những bài này luôn gợi lên trước mắt chúng ta hình ảnh người mẹ, người chị đang kể chuyện với em nhỏ, trò chuyện với em nhỏ.
Ru em em hãy nín đi,
Kẻo mà mẹ đánh em thì em đau.
Em đau chị cũng buồn rầu
Bé mồm bé miệng kêu đâu bây giờ !
Hay những câu hát than thân mở đầu bằng “Thân em” như một lời bộc bạch kể lại cảnh ngộ bấp bênh bất hạnh của mình, luôn bị khai thác ở giá trị sử dụng mà không hề có một sự tôn trọng đúng mức. Nhưng khi ý thức được điều đó thì bản chất nội dung mà các bài ca dao ấy đề cập chính là hướng đến đối tượng xã hội phong kiến hà khắc trọng nam khinh nữ. Vậy bài ca dao là lời kể chuyện hay đối thoại?
Có thể định nghĩa ca dao là những câu hát trò chuyện dân gian, là một lối thơ trữ tình – trò chuyện của nhân dân. Tính thống nhất của các lối kết cấu ca dao dân ca cũng chính là ở đấy.
c. Hệ thống hình ảnh và ngôn ngữ
Hệ thống hình ảnh:
Là nhân vật trữ tình, nhân vật trong ca dao dân ca chủ yếu là những cảm nghĩ của nó. Xét về lời thơ, phương diện chính để biểu đạt những cảm nghĩ ấy là hình ảnh và ngôn ngữ. Hệ thống hình ảnh trong ca dao rất phong phú. Đó là hệ quả của đề tài trong ca dao dân ca và các kiểu nhân vật trữ tình của nó. Để những lời hát luôn luôn nồng nhiệt, hấp dẫn và say mê qua bao đời, bao thế hệ, các tác giả dân gian không ngừng sáng tạo những ý tình kèm theo những hình ảnh mới, những cách biểu đạt mới.
Nhìn chung có thể chia những hình ảnh trong ca dao dân ca thành các nhóm dựa theo những tiêu chí khác nhau. Ông Đỗ Bình Trị khi phân các nhóm hình ảnh đã dựa vào các kiểu nhân vật như: Những hình ảnh gắn liền với kiểu nhân vật “chàng trai – cô gái” trong quan hệ bè bạn lứa đôi; những hình ảnh gắn liền với kiểu nhân vật “những người phụ nữ trong những nghịch cảnh về hôn nhân và gia đình; những hình ảnh gắn liền với kiểu nhân vật “những người lao động trong quan hệ yêu thương gắn bó với công việc làm ăn, gia đình, quê hương, xứ sở, đồng bào”.
Nhưng dù phân chia như thế nào thì cũng không thể phủ nhận rằng ca dao dân ca, xét về phương diện ngôn từ- là những bài ca giàu hình ảnh. Trong đó, những hình ảnh so sánh, ẩn dụ là phổ biến nhất. Nói về thân phận người con gái trong xã hội phong kiến, ca dao có một loạt hệ thống hình ảnh đi kèm như Tấm lụa đào, hạt mưa rào, hạt mưa sa, giếng giữa đàng, cá rô thia, hạc đầu đình, củ ấu gai, chổi chùi chân… Nói đến đôi lứa trong tình yêu nam nữ ta thấy các hình ảnh như Đũa ngọc – mâm vàng, rồng – mây, chèo bẻo – măng vòi, thuyền – bến, mận – đào….
– Em như tố nữ trong tranh
Anh như ngòi bút chấm cành hoa mai.
– Đôi ta như thể con tằm
Cùng ăn một lá, cùng nằm một nong
Đôi ta như thể con ong
Con quấn con quýt con trong con ngoài…
Trong ca dao dân ca, so sánh thường đi đôi với miêu tả trực tiếp và miêu tả phần lớn phải dựa vào so sánh thì miêu tả mới sinh động. Ví dụ tả người con gái:
Cổ tay em trắng như ngà
Con mắt em liếc như là dao cau
Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.
Từ đó ta nhận thấy rằng nếu so sánh mạnh về khái quát cái chung, cái bản chất thì miêu tả trực tiếp có ưu thế nêu bật cái riêng, cái chi tiết của đối tượng biểu hiện, tuy cả hai đều có chức năng cụ thể hóa nó. Những hình ảnh so sánh tập trung thể hiện nhân vật, còn miêu tả lại hướng đến cảnh vật – chủ yếu là cảnh vật thiên nhiên nhưng cũng gửi gắm vào đó tình ý của người hát.
– Đường vô xứ Nghệ quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
– Cần Thơ gạo trắng nước trong Ai đi đến đó, lòng không muốn về.
– Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.
– Hồ Tĩnh Tâm giàu sen Bạch Diệp Đất Hương Cần ngọt quýt thơm cam Ai về cầu ngói Thanh Toàn
Đợi đây về với một đoàn cho vui !
– Ở đây phong cảnh vui thay,
Trên chợ, dưới bến, lại có gốc cây hữu tình.
Đứng ở một góc độ khác, ta lại thấy các hình ảnh so sánh, ẩn dụ, những hình ảnh miêu tả lại có hai loại rõ rệt. Một là những hình ảnh giàu tính ước lệ tượng trưng (gần với văn học viết) như rồng – mây, trúc – mai, loan – phượng…Hai là những hình ảnh dân dã, bình thường, giản dị, chân thực, tự nhiên như chính đời sống vậy (nào là rau muống thả dưới hồ, trái bần trôi, củ ấu gai…; nào là cánh bèo, chiếc thuyền beo, tấm ván nổi chìm…). Tuy nhiên ngay cả những hình ảnh ước lệ khi được dân gian hóa vẫn tạo được nét đẹp rất bình dân. Chẳng hạn như
– Ước gì anh được vô phòng
Cho loan ôm lấy phượng, phượng bồng lấy loan.
– Thiếp xa chàng như rồng nọ xa mây Như con chim chèo bẻo xa cây măng vòi.
d. Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ chính là thành phần tao nên sự tồn tại độc lập của ca dao ngoài ca hát. Bởi ngôn ngữ ca dao đã được xem là phần lời của dân ca. Nếu các yếu tố nhạc điệu, động tác đóng vai trò quan trọng trong dân ca thì ở phần lời thơ, vai trò chủ yếu thuộc về ngôn ngữ. Tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ trong ca dao truyền thống, ông Hoàng Tiến Tựu nhấn mạnh đến bốn mối quan hệ. Đó là ngôn ngữ ca dao với tiếng nói dân tộc, ngôn ngữ ca dao với tiếng nói địa phương, ngôn ngữ ca dao với chức năng và phương thức nghệ thuật của ca dao và ngôn ngữ ca dao với ngôn ngữ thơ trong văn học viết.
Nhờ biết dựa vào ngôn ngữ dân tộc, khai thác và sử dụng ngôn ngữ dân tộc mà ca dao dân gian Việt Nam rất giàu bản sắc. Không những thế mà ca dao còn có tác động ngược trở lại ngôn ngữ dân tộc để củng cố và phát triển ngôn ngữ dân tộc. Văn học dân gian vốn có tính dân tộc, tính tập thể và tính truyền miệng nên vừa thống nhất vừa rất đa dạng. Vì vậy mà hai khuynh hướng dân tộc hóa và địa phương hóa luôn diễn ra song song và tác động lẫn nhau. Ngôn ngữ ca dao cũng thế. Vừa đậm đà bản sắc dân tộc vừa mang sắc thái địa phương. Đọc ca dao, đứng ở góc độ ngôn ngữ các nhà nghiên cứu có thể giải mã vùng, miền với độ chính xác khá cao nhờ đặc trưng ngôn ngữ địa phương toát ra từ bài ca dao ấy.
Ca dao Bắc bộ hát giã bằng ngôn ngữ nhẹ nhàng tình tứ:
Người về em chẳng cho về
Em nâng vạt áo, em đề câu thơ
Ca dao Nam bộ lai diễn tả nội dung này bằng một cách nói rõ ràng, bộc trực hơn, dứt khoát và rạch ròi hơn:
Anh về em nắm vạt áo em la làng
Anh phải bỏ chữ thương chữ nhớ giữa đàng cho em…
Tuy nhiên, khi sáng tác ca dao, nhân dân chọn lựa và sử dụng ngôn ngữ theo yêu cầu của nghệ thuật thơ ca (dù là thơ ca dân gian thì cũng phải có yếu tố này) để bộc lộ tâm tình và những cảm xúc thẩm mỹ mà ngôn ngữ giao tiếp thông thường không thể nào diễn đạt được. Thật vậy, như đã trình bày ở trên, ngôn ngữ ca dao là một thứ ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm, tính chất biểu tượng, ước lệ, tượng trưng, ẩn dụ rất đậm nét.
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng Tre non đủ lá đan sàng nên chăng ?
– Đan sàng thiếp cũng xin vâng
Tre vừa đủ lá non chăng hỡi chàng ?
“Tre non đủ lá” còn được hiểu là trai gái đã đến tuổi thành niên. “Đan sàng” còn có ý là kết hôn, tác thành đôi lứa. Và nếu chỉ hiểu ngôn ngữ ấy theo kiểu giao tiếp lời nói thông thường thì câu ca dao tỏ tình nêu trên sẽ không còn độc đáo và ý nghĩa nữa. Ngôn ngữ ca dao còn có quan hệ với ngôn ngữ trong thơ ca của văn học viết (Còn có hiện tượng các nhà thơ văn học viết sáng tác “ca dao”). Đứng ở góc nhìn ngược lại từ phía văn học viết, các nhà thơ ta từ cổ chí kim đã học hỏi, vận dụng rất phổ biến ca dao vào trong sáng tác của mình (Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Nguyễn Bính, Tố Hữu. ). Ngược lại các tác giả dân gian cũng tiếp nhận ít nhiều ngôn ngữ văn học viết trong cách diễn đạt, lựa chọn từ ngữ…Ta đọc thử bài ca dao:
Lửng lơ vầng quế soi thềm
Hương đưa bát ngát càng thêm bận lòng
Dao vàng bỏ đẫy kim nhung
Biết rằng quân tử có dùng ta chăng
Đèn tà thấp thoáng bóng trăng
Ai đem người ngọc thung thăng chốn này ?
Trong hệ thống khá phong phú các từ ngữ thơ ca bác học được dùng ở ca dao, có nhà nghiên cứu đã thống kê khá nhiều các danh từ riêng chỉ tên nhân vật và địa danh trong văn học viết như Kim Trọng, Thúy Kiều, Từ Hải, Lục Vân Tiên, Nguyệt Nga, Đại Thánh, Trương Phi…. Núi Thái Sơn, sông Ngân Hà, cầu Ô
Thước… các nước Tấn, Tần, Ngô, Sở, Hán, Hồ….
– Đôi ta như điểu với ngư
Chàng như Kim Trọng, thiếp như Thúy Kiều
– Bấy lâu Hồ, Hán hai phương Ngày nay gặp mặt người thương đã rồi
– Bây giờ con tạo xoay vần
Xui nên kẻ Tấn, người Tần gặp nhau
– Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy
– Sông Ngân nguyện bắc cầu Ô Thước Duyên nợ này không trước thì sau…
Xem thêm : Nước Đức 1870-1914
Cũng tìm hiểu ngôn ngữ ca dao, có nhà nghiên cứu thiên về tính chất của ngôn ngữ hơn nên nêu ra các đặc điểm biểu hiện như tính chất giản dị, mộc mạc, chân tình. Cách nói kiểu cách với những ngôn từ hoa mỹ không phải là cách biểu đạt quen thuộc của ca dao. Sau này trong văn học viết, nhà thơ nào vượt ra khỏi những quy phạm đã trở thành khuôn khổ của văn học cổ điển để sáng tác bằng lời ăn tiếng nói của nhân dân, vận dụng những hình ảnh quen thuộc trong ca dao thì được gọi là nhà thơ có cách diễn đạt dân gian, thơ có chất ca dao. Ở đây điều cần lưu ý là ta không nên hiểu một cách thô thiển về tính giản dị của ngôn ngữ ca dao. Đó là sự giản dị đã được kết tinh từ lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân dân.
– Lên non đón gió lấy trầm, Xui ông lấy mật, giục tằm nhả tơ.
– Ai về giồng Dứa qua truông, Gió lay bông sậy, để buồn cho em….
Một tính chất khác của ngôn ngữ gắn liền với tính giản dị là tính chất sinh động. Ca dao biểu hiện cảm nghĩ một cách gợi cảm, miêu tả sự vật một cách gợi hình. Đặc điểm này thể hiện tập trung ở việc khai thác triệt để và sử dụng sáng tạo trước hết là những giá trị gợi tả dồi dào của âm thanh trong tiếng Việt (từ mô phỏng, từ láy, thanh điệu, vần…); kế tiếp là các hình thức chuyển nghĩa trong kết cấu tiếng Việt (như so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, nhân hóa, lộng ngữ…đã được trình bày ở phần hệ thống hình ảnh) và cuối cùng là hệ thống động từ và tính từ chỉ tình thái của tiếng Việt. Để chứng minh cho điều này, ta dẫn giải bài ca dao sau:
Trời mưa
Quả dưa vẹo vọ
Con ốc nằm co
Con tôm đánh đáo
Con cò kiếm ăn
Bài ca dao miêu tả chính xác trạng thái của từng sự vật, con vật trong cơn mưa: dưa méo mó (tục ngữ: nắng tốt dưa, mưa tốt lúa – dưa kết trái vào cử mưa thường không tròn quả); ốc thấy động nước, chui vào vỏ chìm xuống; tôm búng mình bơi lăng quăng hớt các sinh vật phù du; cò được dịp đục nước, tranh thủ kiếm mồi. Nghĩa bóng của bài ca dao cũng được thể hiện tài tình: trước hoàn cảnh xáo động, có hạng người bị “biến dạng” đi, có hạng người khiếp nhược co mình lại, có hạng người nhởn nhơ vô tư lự Riêng người lao động vẫn an nhiên chủ động trong công việc của mình. Chỉ có mấy từ vẹo vọ, nằm co, đánh đáo, kiếm ăn (chủ yếu là động từ) mà vẽ ra được một bức tranh sống động, tả thực cũng giỏi mà ngụ ý cũng thích đáng.
e. Thể thơ
Các thể thơ trong ca dao, còn được gọi là những thể thơ dân tộc, bao gồm thể lục bát và lục bát biến thể, thể song thất lục bát và song thất lục bát biến thể, thể vãn (3, 4 hoặc 5 chữ) và cuối cùng là thể hỗn hợp (sử dụng kết hợp với các thể kể trên).
Thể lục bát và lục bát biến thể:
– Ngập ngừng vịt lội ao sen
Bữa nay gặp lại người quen tôi mừng
– Đêm nằm mà gác tay qua
Giường không chiếu lạnh, lụy sa hai hàng.
– Đêm khuya em ngồi dựa mái hiên đình Sương sa, gió lạnh, không thấy mình vãng lai
– Hai đứa mình như con sáo tắm ao sâu
Ban ngày xa cách nhưng tối đâu đâu cũng về.
– Hai đứa mình gá nghĩa bữa nay,
Tiền nhựt em nói vậy, còn hậu lai thế nào?
Anh dứt lời than, em ruột thắt gan bào,
Anh đi về bển, em vô phòng đào nước mắt rơi.
Song thất lục bát và song thất lục bát biến thể:
– Mây trên trời bủa giăng tứ phía
Nước ngoài biển sóng dợn tứ bề
Làm sao hiệp nghĩa phu thê,
Đó chồng, đây vợ ra về có đôi.
– Miễn bậu chịu ừ, anh chẳng từ lao khổ,
Dẫu đăng sơn tróc hổ hay quá hải đồ long.
Trước sau giữ trọn một lòng
Gian lao chi sá, anh quyết một lòng theo em.
Thể vãn (vãn ba chữ, bốn chữ, năm chữ…)
– Xỉa cá mè Đè cá chép Chân nào đẹp Đi buôn men
Chân nào đen…
– Lạy giời mưa xuống Lấy nước tôi uống Lấy ruộng tôi cày Lấy bát cơm đầy
Lấy khúc cá to…
Và thể hỗn hợp (hay còn gọi là thể thơ tự do)
– Hòn đá đóng rong Vì dòng nước chảy Hòn đá bạc đầu Bởi tại sương sa
Em thương anh chẳng dám nói ra Sợ mẹ bằng đất, sợ cha bằng trời Em thấy anh cũng muốn kết đôi
Sợ vầng trăng bạc trên trời mau tan
– Tàu Nam Vang mũi đỏ, Ghe Sa Đéc mũi đen.
Em ở chi nước rẫy nước phèn,
Theo anh về chợ đốt đèn măng xông.
– Đầu đường có cây duối Cuối đường có cây đa
Ngã ba đường có dây tơ hồng
Con gái chưa chồng trong lòng hớn hở
Con trai chưa vợ mặt tợ trái chanh
Ngó lên mây trắng trời xanh
Thương ai cũng vậy, thương anh cho rồi.
Trong tất cả các thể thơ vừa ví dụ nêu trên, thể thơ lục bát chiếm một số lượng rất lớn và trở thành một thể thơ tiêu biểu nhất của ca dao. Đây là một thể thơ cách luật cổ điển. Tuy không phải “thuần túy Việt Nam nhưng mang nhiều đặc trưng dân tộc, có một đời sống mạnh mẽ và vận mệnh lâu dài trong văn học Việt Nam” (Bùi Mạnh Nhị). Thật vậy, thể lục bát hàm chứa nhiều đặc điểm của ngôn ngữ dân tộc về vần, nhịp, thanh điệu và được sử dụng phổ biến không chỉ trong văn học dân gian mà còn ở cả văn học viết (Lục bát truyện Kiều, lục bát Lục Vân Tiên…). Lục bát có một số dấu hiệu nhận biết rất cơ bản như số lượng âm tiết nhất định trong hai dòng thơ bắt buộc tạo nên một đơn vị tế bào lục bát; thứ tự và chức năng cấu trúc của mỗi dòng (Lục trước mở đầu, Bát sau kết thúc một đơn vị); những quy tắc về vần, nhịp, luật bằng, trắc (sự chuyển đổi vần và thanh điệu trong mỗi dòng thơ. Chẳng hạn như câu Cái cò lặn lội bờ sông – Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non). Những dấu hiệu vừa nêu đều có những biến thể, tạo nên những cách tân trong thể thơ quen thuộc này. Chiếm đến hơn 90 % trong ca dao dân ca, thể thơ lục bát rất phù hợp với ngôn ngữ dân tộc và có khả năng phản ánh nhiều phương diện về đời sống. Nhạc điệu của thể thơ này rất phù hợp với các giai điệu dân ca Việt Nam ngọt ngào, trữ tình mà đa dạng, biến hóa.
Lục bát trong ca dao rất ngắn gọn (đây là một đặc điểm chứ không hẳn là một ưu điểm) với phần lớn một bài ca tương đương một đơn vị một cặp lục bát. Sở dĩ như vậy là vì ca dao – một thể loại không có cốt truyện (nên không thể triển khai ở dung lượng dài) là một thể loại trữ tình diễn tả những khoảnh khắc giây phút bùng nổ tâm trạng thường được sáng tác trong hoàn cảnh ứng tác nhanh, ngắn gọn hầu dễ nhớ, dễ lưu truyền.
g. Thời gian và không gian nghệ thuật
Thời gian nghệ thuật trong ca dao dân ca trữ tình là thời gian hiện tại của chính thời điểm diễn xướng (Không giống như thời gian quá khứ trong thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích).
Thật vậy, dù nhân vật có nói về năm xưa, hôm qua, ngày đi, ngày về thì cũng từ thời điểm hiện tại mà nói. Cứ mỗi lần bài ca được hát lên, nó lại được hiện tại hóa thời gian. Như vậy, thời gian luôn mới, luôn là thời gian hiện tại mỗi lần diễn xướng. Và vì thế, yếu tố thời gian có là quá khứ hay tương lai thì cũng được xác định từ hiện tại.
Hôm qua anh đến chơi nhà… Hôm qua tát nước đầu đình… Đêm qua ra đứng bờ ao…
Ngày đi em chửa có chồng… Bao giờ cho đến tháng mười… Sáng ngày em đi hái dâu…
Nếu thời gian trong nhiều thể loại tự sự dân gian là thời gian huyền thoại thì thời gian trong ca dao dân ca là thời gian có thực. Thời gian hư cấu, nếu có, đều mang tính chất chủ quan của tác giả. Ta có thể gọi đây là thời gian tâm lý (hay thời gian tâm trạng) được cảm nhận bằng tâm trạng, bằng sự tưởng tượng hoặc hồi tưởng.
Đã là thời gian tâm lý thì nó có muôn vàn cách biểu hiện phụ thuộc vào những cảm nghĩ, tâm tư, cảm xúc…của nhân vật trữ tình. Đó có thể là dòng chảy của năm tháng gắn bó với sự đổi thay của sự vật con người.
– Ngày đi em chửa có chồng
Ngày về em đã con quấn, con quít, con bế, con bồng, con mang
– Nhớ khi anh bủng anh beo
Tay nâng chén thuốc, tay đèo múi chanh. Bây giờ anh khỏi, anh lành,
Anh mê duyên mới, anh tình phụ tôi…
Và sự cảm nhận thời gian ở đây không còn tuân thủ những nguyên tắc vật lý khoa học nữa mà là một sự cảm nhận hoàn toàn chủ quan theo tâm trạng của nhân vật:
– Tôi xa mình ông trời nắng tôi nói mưa,
Canh ba tôi nói sáng, ông trời trưa tôi nói chiều.
– Chờ em đã tám hôm nay,
Hôm qua là chín, hôm nay là mười
Trong ca dao dân ca trữ tình tồn tại hàng loạt công thức thời gian mà mỗi một công thức như thế có một ngữ nghĩa nghệ thuật riêng, đôi khi rất hiệu quả trong việc giải mã tình cảm nhân vật trữ tình trong bài ca. Nhân vật trữ tình đang hát ở một thời điểm nào thì ít nhiều ta có thể xác định điều gì đang diễn ra trong tâm trạng của nhân vật ấy. Chẳng hạn như Chiều chiều thường diễn tả nỗi buồn xa quê; Đêm qua thường gợi nhắc những nỗi nhớ về kỷ niệm; Trăm năm thường là những mong ước thề nguyền…v.v…
Không gian nghệ thuật trong ca dao dân ca trữ tình là nơi nhân vật trữ tình đang đứng hoặc hình dung, suy tưởng.
Khác với không gian nghệ thuật mang tính chất phiếm chỉ trong truyện cổ tích, không gian ở đây thường được xác định. Đặc biệt là ca dao dân ca địa danh. Những tên gọi cụ thể mang tên một tỉnh, một vùng, một làng cụ thể gắn với khu vực địa lý thực tế ở thời điểm đó, một số vẫn tồn tại đến bây giờ.
– Ai về Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Để thương, để nhớ, để sầu cho ai.
– Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn…
– Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh Gái nào bảnh bằng gái Cần Thơ Làm chi nay đợi mai chờ
Linh đinh Phong Mỹ, dật dờ Hoài An.
Tuy nhiên cũng giống như thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật trong ca da dân ca trữ tình cũng là không gian tâm lý. Và nếu xác định được nhân vật trữ tình đang hát ở nơi nào, địa điểm nào thì ta cũng đoán biết được tâm trạng của nhân vật đang diễn ra như thế nào. Chẳng hạn như Ngõ sau là nỗi buồn nỗi nhớ; Giữa đường là nơi gặp gỡ làm quen; Bến sông là nơi ngóng trông chờ đợi..v.v….
Đôi khi những yếu tố thuộc về không gian lại tham gia vào trong lời độc thoại của nhân vật trữ tình và đóng vai trò là một đối tượng được nhân hóa để chủ thể trữ tình hướng tới; tham gia vào tình huống tạo nên kịch tính để tác động đến tình cảm nhân vật hoặc xuất hiện như là những trở ngại để giúp nhân vật thổ lộ và khẳng định tình yêu, niềm tin và lòng chung thủy
– Núi cao chi lắm núi ơi
Che khuất mặt trời chẳng thấy người thương.
– Ai đưa em đến chốn này Bên kia là núi bên này là sông
Sông thưa nước chảy đôi dòng Trai nên vợ, gái nên chồng thì nên.
– Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Thất bát sông cũng lội, ngũ lục, cửu thập đèo cũng qua.
– Trời cao đất rộng em giữ trọn lời nguyền..
– Trăm năm ước nguyện chung tình, Trên trời, dưới nước có mình với
Cuối cùng không gian nghệ thuật trong ca dao dân ca trữ tình có thể hoàn toàn là không gian đồng hiện. Đó là Biên ải với quê nhà; Ngõ sau với quê mẹ; Bờ ao với nhà người yêu….
(Nguồn tham khảo: Trần Tùng Chinh, Giáo trình văn học dân gian Việt Nam)
Nguồn: https://25giay.vn
Danh mục: Tin Tức