Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917: nguyên nhân, diễn biến, kết quả và ý nghĩa

0

Tìm hiểu về Cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917: Bối cảnh, nguyên nhân, diễn biến và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng này.

I – NƯỚC NGA TRƯỚC CÁCH MẠNG

Sau Cách mạng năm 1905, nước Nga vẫn là một nước quân chủ chuyên chế.

Lúc này, ở Nga đã có một nền đại công nghiệp tập trung rất cao với sự xuất hiện của các tổ chức độc quyền, phần lớn dưới hình thức xanhđica (các tổ chức độc quyền đã kiểm soát nhiều ngành công nghiệp quan trọng như dấu mỏ, than đá, luyện kim, đường sắt… cũng như trong lĩnh vực tiền tệ – tín dụng). Năm 1904, ở Nga đã có tới 50 tổ chức độc quyền lớn với trình độ tập trung rất cao. Ngay từ trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, 13 ngân hàng lớn ở Pêtécbua đã tập trung trong tay tới 65% tổng số tư bản của tư nhân và trên 72% số tiền gửi vào ngân hàng. Trình độ tập trung của tư bản ngân hàng ở Nga cao hơn so với nhiều nước khác. Trên cơ sở hợp nhất giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp, ở Nga đã hình thành sự thống trị của tư bản tài chính. Giai cấp tư bản độc quyền Nga đã giữ địa vị có ý nghĩa quyết định trong đời sống kinh tế – tài chính của đất nước và cấu kết chặt chẽ với chính quyền Nga hoàng. Họ đã giữ những cương vị quan trọng trong viện Đuma quốc gia cũng như trong những cơ quan nhà nước khác và tác động mạnh mẽ tới chính sách đối nội và đối ngoại của chính phủ Nga hoàng. Nhưng nước Nga chỉ là một nước tư bản chủ nghĩa phát triển trung binh. Chủ nghĩa tư bản Nga phát triển muộn hơn, ngày càng lạc hậu và lệ thuộc vào các nước phương Tây Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng lạc hậu ấy của nước Nga chỉ có thể giải thích bằng sự tồn tại rất nặng nề những tàn tích phong kiến – nông nô.

Cơ sở tồn tại của những tàn tích phong kiến nông nô chính là chế độ sở hữu lớn về ruộng đất của giai cấp địa chủ – quý tộc. Hai phần ba ruộng đất ở trong nước là nằm trong tay địa chủ – quý tộc và nhà thờ, 30 nghìn đại địa chủ chiếm tới 70 triệu đềxiatin ruộng đất, nghĩa là bằng số ruộng đất của 10,5 triệu nông nô. Nga hoàng là địa chủ lớn nhất, chỉ riêng gia đình và họ hàng của Nga hoàng đã chiếm tới 7 triệu đềxiatin ruộng đất. Bọn địa chủ bóc lột nông dân hết sức nặng nề và tàn bạo, nhất là chế độ lao dịch. Trình độ sản xuất nông nghiệp hết sức lạc hậu: lao động thủ công là chủ yếu, năng suất thấp kém, nạn mất mùa và đói kém thường xuyên xảy ra ở các vùng.

Về chính trị, nước Nga là một nước quân chủ chuyên chế. Toàn bộ quyển lực chính trị trong nước là thuộc Nga hoàng Chế độ quân chủ Nga hoàng – nền chuyên chính của giai cấp địa chủ – chiếm giữ mọi đặc quyền về chính trị và mọi đặc lợi về kinh tế. Cấu kết chặt chẽ với giai cấp tư sản, chính quyền Nga hoàng thẳng tay bóc lột và áp bức tàn bạo các tầng lớp nhân dân lao động, tước đoạt các quyền tự do dân chủ, đàn áp mọi phong trào đấu tranh đòi dân chủ của nhân dân, duy trì thường xuyên một đội quân đông đảo cảnh sát, mật thám và chiến binh. Phong kiến – quân phiệt là bản chất của chế độ chuyển chế Nga hoàng.

Chế độ Nga hoàng còn là nhà tù của các dân tộc. Nước Nga là một quốc gia nhiều dân tộc, có tới trên 100 dân tộc khác nhau, chiếm 57% dân số trong nước. Nhân dân các dân tộc không phải Nga đã rên xiết dưới hai ách áp bức: ách áp bức dân tộc của chế độ Nga hoàng và ách áp bức xã hội của bọn chúa đất và tư sản địa phương. Chính quyền Nga hoàng còn thi hành chính sách kì thị chủng tộc: chia rẻ và gây hằn thủ giữa các dân tộc, chà đạp và phá hoại nền văn hóa của các dân tộc, cấm giảng dạy và xuất bản sách báo bằng tiếng mẹ đẻ… Trong những điều kiện của chủ nghĩa đế quốc, ách áp bức dân tộc lại càng nặng nề hơn.

Đế quốc Nga xâm lược áp bức các dân tộc lạc hậu, nhưng chính nó lại lệ thuộc vào các nước đế quốc phương Tây, nhất là đối với Anh, Pháp. Tư bản nước ngoài đã đầu tư rất nhiều vào các ngành công nghiệp quan trọng như luyện kim, than đá và dầu mỏ. Ngay từ năm 1890, tư bản nước ngoài đã chiếm tới 47% tổng số vốn đầu tư ở Nga còn chính phủ Nga hoàng nợ của Anh, Pháp gần 8 tỉ rúp vàng.

Như vậy, sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản độc quyền và những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa, sự kết hợp những hình thái kinh tế tiên tiến nhất và lạc hậu nhất đã làm cho nước Nga trở thành nơi hội tụ cao độ những mâu thuẫn gay gắt của chủ nghĩa đế quốc mâu thuẫn giữa tư bản và vô sản, mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân, mâu thuẫn giữa đế quốc Nga và các dân tộc bị áp bức, mâu thuẫn giữa đế quốc Nga và các nước đế quốc Tây Âu. Trong đó, có những mâu thuẫn thuộc chủ nghĩa tư bản, đồng thời lại có những mâu thuẫn của xã hội phong kiến chưa được giải quyết. Toàn bộ những mâu thuẫn này chồng chéo lên nhau và ngày càng gay gắt làm cho nước Nga trở thành khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc thế giới. Chính sự gay gắt của những mâu thuẫn đó đã dẫn tới sự hình thành những tiền đề khách quan cho một cuộc cách mạng xã hội ở nước Nga.

Trước hết, đó là giai cấp vô sản Nga.

Tuy số lượng không đông, chỉ chiếm khoảng 10% dân số năm (1913 có 12 triệu người), nhưng giai cấp vô sản Nga có nhiều ưu điểm nổi bật về chất lượng, nhất là về tinh thần và khả năng cách mạng. Bộ phận giác ngộ nhất, tiên tiến nhất và có tổ chức nhất của giai cấp vô sản Nga là đội ngũ công nhân đại công nghiệp (năm 1913 có 3,1 triệu người), tập trung chủ yếu trong các xí nghiệp, nhà máy lớn. Trình độ tập trung của công nhân Nga lại cao hơn so với nhiều nước khác.

Giai cấp vô sản Nga có tinh thần và truyền thống đấu tranh cách mạng. Họ bị bóc lột và áp bức nặng nề. Trải qua đấu tranh lâu dài, đặc biệt là cuộc Cách mạng năm 1905, giai cấp vô sản Nga đã được thử thách, rèn luyện và tích luỹ được nhiều kinh nghiêm đấu tranh phong phú. Điều có ý nghĩa cực kì quan trọng là giai cấp vô sản Nga đã xây dựng được chính Đảng tiên phong, cách mạng chân chính của mình. Đó là Đảng bônsêvich Nga do lãnh tụ thiên tài V.I. Lênin đứng đầu. Đảng được vũ trang bằng lí luận cách mạng của chủ nghĩa Mác, có khả năng lôi cuốn, tổ chức và lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và các tầng lớp nhân dân trong cả nước.

Giai cấp vô sản Nga còn có mối liên hệ chặt chẽ với nông dân lao động và nhân dân các dân tộc bị áp bức. Với những đặc điểm đó, giai cấp công nhân Nga là giai cấp đi tiên phong và có đẩy đủ khả năng lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội trong nước.

Giai cấp nông dân – trước hết là nông dân nghèo – là lực lượng cách mạng to lớn, là bạn đồng minh tin cậy của giai cấp công nhân. Nông dân chiếm tới 4/5 dân số trong nước và 65% số hộ ở nông thôn là bần nông, bị áp bức bóc lột rất nặng nề, số đông không có hoặc có rất ít ruộng đất. Trong lịch sử đất nước, nông dân Nga đã nhiều lần nổi dậy đấu tranh. Giải cấp nông dân Nga là một lực lượng cách mạng to lớn.

Các dân tộc bị áp bức ở những vùng biên khu là một lực lượng cách mang quan trọng và là người bạn đồng minh của giai cấp vô sản Nga. Thực tế, đại bộ phận nhân dân các dân tộc bị áp bức là quần chúng nông dân nghèo khổ, bị áp bức bóc lột hết sức thậm tệ. Trong những điều kiện của giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, mâu thuẫn dân tộc và cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc đã trở nên gay gắt và tăng lên không ngừng.

Như vậy là những tiền đề kinh tế – xã hội khách quan và những điều kiện chủ quan đã có đủ cho thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội, nhưng cách mạng chỉ có thể bùng nổ khi xuất hiện một tình thế cách mạng. Chính cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918) đã dẫn tới sự xuất hiện một tình thế cách mạng đó ở nước Nga.

II – CÁCH MẠNG DÂN CHỦ TƯ SẢN THÁNG HAI

Sau ba năm theo đuổi chiến tranh, tới cuối năm 1916 và đầu năm 1917 nước Nga đã lâm vào một tình trạng khủng hoảng kinh tế và xã hội – chính trị trầm trọng. Chiến tranh càng kéo dài càng phơi bày rõ mọi sự lạc hậu về kinh tế và quân sự của đất nước, càng làm gay gắt mọi mâu thuẫn trong xã hội.

Nền công nghiệp của nước Nga đa không đảm bảo được những yêu cầu của cuộc chiến. Quân đội trang bị lạc hậu, thiếu thốn vũ khí và các phương tiện quân sự. Trong khi đó, những kẻ cấm đấu bộ máy chiến tranh lại hết sức thối nát và mang nặng tâm lí chiến hại. Nhiều bộ trưởng và tướng tá ăn tiền đút lót của Đức đã tiết lộ, cung cấp những bí mật quân sự cho chúng. Quân Nga thua trận liên tiếp và tổn thất nặng nề. Năm 1916, quân Đức đã chiếm được Ba Lan và nhiều vùng thuộc Ban Tích.

Chiến tranh đã tàn phá năng nổ và nhiều thảm họa đối với các tổng lớp nhân dân. Đã có tới 1,5 triệu người chết và 4 – 5 triệu người bị thương. Nền kinh tế quốc dân kiệt quệ, sản xuất công nghiệp và nông nghiệp đình đốn. Vận tải đường sát không còn đủ sức chuyên chở hành khách và hàng hóa. Nạn thất nghiệp tăng nhanh. Ở các thành phố lớn, việc cung cấp bánh mì, đường sữa ngày càng thất thường. Nạn đói đã xảy ra trầm trọng ở nhiều vùng nông thôn. Phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân đã tăng lên mạnh mẽ.

Chế độ Nga hoàng khủng hoàng trầm trọng nội bộ giai cấp thống trị ngày càng rạn nứt và mâu thuẫn sâu sắc với nhau. Chính phủ Nga hoàng quyết định giải tán viện Đuma quốc gia, chuyển chính quyền sang tay bọn độc tài quân sự. Chúng bắt đầu đàm phán bí mật và âm mưu kí hòa ước riêng rẻ với Đức để có thể rảnh tay đối phó với phong trào cách mạng củng cố nền thống trị của chúng. Giai cấp tư sản Nga chống lại việc kí hòa ước đó, bởi nhờ chiến tranh mà họ đã phát tài lớn và thực hiện nhưng tham vọng đế quốc chủ nghĩa. Họ chủ trương theo đuổi cuộc chiến đến cùng. Trước âm mưu của chính phủ Nga hoàng muốn kí hòa ước riêng rẽ với Đức, giai cấp tư sản dự định tiến hành “một cuộc đảo chính cung đình” lật đổ Nga hoàng Nicolai II Rômanốp, bắt y trao ngai vàng cho đứa con trai còn nhỏ tuổi, và đưa quận công Mikhain Romanốp – em trai Nga hoàng, một phần tử tư sản không thân Đức – lên làm phụ chính nắm chính quyền. Các nước đế quốc Anh, Pháp… đã hoàn toàn ủng hộ giai cấp tư sản Nga. Chế đề Nga hoàng bị cô lập sâu sắc.

Những sự việc nêu trên chứng tỏ rằng một tình thế cách mạng đã hình thành ở trong nước, khi:

+ các giai cấp thông trị không thể tiếp tục thống trị với hình thức cũ;

+ nỗi cùng khổ và quấn bách của các giai cấp bị áp bức trở nên nặng nề hơn mức bình thường;

+ do những nguyên nhân nói trên, tính tích cực của quần chúng được nâng cao rõ rệt.

Nước Nga đã tiến sát tới cuộc cách mạng, Lênin cho rằng “Nội dung xã hội của cuộc cách mạng sắp nổ ra ở nước Nga chỉ có thể là nền chuyên chính dân chủ cách mạng của giai cấp vô sản và nông dân. Cách mạng không thể thắng lợi ở nước Nga, nếu không lật đổ chế độ quân chủ và bọn địa chủ phong kiến. Song giai cấp vô sản không thể lật đổ chúng nếu không được nông dân giúp đỡ…”. Trong điều kiện lịch sử mới, khác với cuộc Cách mạng 1905 – 1907, Lênin đã chỉ ra: cuộc cách mạng dân chủ tư sản sắp tới ở Nga có nhiều khả năng thuận lợi và “hết sức gần” để chuyển sang cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Tới đầu năm 1917, làn sóng đấu tranh chống chính quyền đã bao trùm thủ đô Petrôgrat (thành phố Petrograt sau đổi tên thành Leningrat và hiện nay là Saint-Peterburg). Trong tháng 1, có tới 250 nghìn công nhân tham gia bài công, sang tháng 2- số công nhân bài công lên tới hơn 400 nghìn người. Tình hình ở thủ đô Patrôgrát trở nên đặc biệt căng thẳng.

Ngày 23-2 (tức 8-3 theo công lịch), hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng bộ bônsevich Pêtrôgrát kỉ niệm Ngày Quốc tế phụ nữ, chị em công nhân các nhà máy đã xuống đường biểu tình tuần hành. Công nhân thuộc 50 nhà máy ở thủ đô bãi công hưởng ứng. Ngày hôm đó, có tới 128 nghìn người tham gia đấu tranh với khẩu hiệu “Đả đảo chiến tranh” “Đả đào chế độ chuyên chế, “Bánh mì”… Trong những ngày tiếp theo, làn sóng đấu tranh vẫn tiếp tục và ngày càng dáng cao.

Binh lính – chỗ dựa cuối cùng của chế độ – ngày càng dao động và đã ngả về phía quần chúng nổi dậy.

Ngày 27-2, khởi nghĩa đã thực sự bao trùm khắp thủ đô. Công nhân chiếm các kho vũ khí và trang bị cho mình. Trong ngày hôm đó, binh lính ở thủ đô ngả hẳn sang phía nhân dân: buổi sáng mới có 10 nghìn người, buổi chiều lên tới 66 nghìn người. Với khí thể mạnh mẽ và lực lượng áp đảo quần chúng khởi nghĩa đánh chiếm các công sở, nhà ga xe lửa, trung tâm bưu điện, các nhà giam và giải phóng tù chính trị. Các bộ trưởng và tướng tá bị bắt giam. Quần chúng khởi nghĩa đã làm chủ tình hình ở thủ đô.

Ngày 28-2, sau khi thấy bất lực và không còn kiểm soát được tình hình, tướng Khabalốp hạ lệnh cho các đơn vị quân đội ở thủ đô hạ vũ khí. Cuộc khởi nghĩa đã thắng lợi ở thủ đô.

Ngay trong ngày đầu tiên của cách mạng, Trung ương Đảng bônsêvich đã ra bản Tuyên ngôn tuyên bố chế độ Nga hoàng đã bị đó, kêu gọi công nhân và binh lính hay nhanh chóng thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời bao gồm các đại biểu nhân dân, thiết lập nền cộng hòa dân chủ, thực hiện các quyền tự do dân chủ và ý chí của nhân dân.

Chiều ngày 27-2, tại cung điện Tavritrécxki ở thủ đô, các đại biểu đầu tiên (được bầu ở các nhà máy, xí nghiệp và các đơn vị quân đội) đã ra mắt và thành lập một tổ chức cách mạng thống nhất như một cơ quan chính quyền mới – Xô viết đại biểu công nhân và binh linh Pêtrográt.

Tin tháng lợi của cuộc khởi nghĩa ở thủ đô đã bay nhanh tới các địa phương trong nước. Công nhân và nhân dân ở Matxcơva, các thành phố và các địa phương đã nhanh chóng nổi dậy lật đổ chế độ cũ, thành lập các Xô viết đại biểu công nhân, binh lính và Xô viết đại biểu nông dân. Các Xô viết – cơ quan của khối liên minh công nhân và nông dân – từ những cơ quan lãnh đạo khởi nghĩa trở thành những cơ quan chính quyền cách mạng.

Như thế, trên phạm vi cả nước cuộc Cách mạng dân chủ tư sản tháng Hai năm 1917 đã thắng lợi. Đó là một sự kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với nước Nga – chế độ Nga hoàng chuyền chế thống trị nhân dân từ bao đời này đã bị sụp đổ chỉ trong vòng 8 ngày (VILênin – “Thư từ xa”). Nước Nga trở thành nhà nước cộng hòa dân chủ.

Nhưng sau Cách mạng tháng Hai, một tình hình chính trị phức tạp chưa từng có đã diễn ra ở nước Nga.

Lúc này, Xô viết Patroprat hoàn toàn có khả năng nắm chính quyền cũng như thực hiện việc chuyển toàn bộ chính quyền về tay các Xô viết ở các địa phương. Nhưng các thủ lĩnh mensêvích và Xã hội cách mạng – với quan điểm mà họ theo đuổi rằng sau cách mạng tư sản, chính quyền là thuộc về giai cấp tư sản đã bí mật tiến hành thương lượng và thôn hiệp với các đảng tư sản. Các Xô viết đã không ủng hộ đề nghị của những người bônsêvích và việc thành lập Chính phủ cách mạng làm thời của chính các Xô viết. Trong phiên họp ngày 2-3, Ban chấp hành Xô viết Petrôgrát đã thông qua nghị quyết chuyển giao chính quyền cho giai cấp tư sản.

Cùng ngày 2-3, được sự ủng hộ của các thủ lĩnh mensêvich và Xã hội cách mạng, Ủy ban làm thời của viện Đuma quốc gia đã thành lập Chính phủ lâm thời do huân tước Lơvớp làm thủ tướng. Tham gia Chính phủ làm thời cơ các thủ lĩnh các đảng: đảng Cađê (Dân chủ lập hiến) của giai cấp tự sản, đảng Tháng Mười của địa chủ “tư sản hóa” và một đại biểu của Đảng Xã hội cách mạng là Kêrenxki.

Như thế, sau Cách mạng tháng Hai ở Nga đã hình thành một tình hình độc đáo là có hai chính quyền song song tồn tại: Chính phủ tư sản lâm thời và Xô viết đại biểu công nhân, nông dân và binh lính. Hai chính quyền này đại diện cho lợi ích của các giai cấp khác nhau nên không thể cùng tồn tại trong một nước và sự xung đột giữa chúng là không tránh khỏi.

III – CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THÁNG MƯỜI

1. Các lực lượng chính trị sau Cách mạng tháng Hai. Chính sách của Chính phủ lâm thời

Cách mạng tháng Hai không những đã đưa tới tình trạng hai chính quyền mà còn làm thay đổi đáng kể sự tập hợp lại các lực lượng chính trị trong nước. Các lực lượng cực hữu như phải quân chủ Trăm Đen đã không còn tồn tại. Các đảng phái hữu khác như Tháng Mười, Tiến Bộ bị khủng hoảng sâu sắc.

Đảng Cađê – đảng tư sản tự do lớn nhất – đã trở thành đảng cầm quyền, giữ các vị trí then chốt trong Chính phủ lâm thời (lúc này, đảng có tới 70 nghìn người). Tại Đại hội lần thứ bảy (3-1917), Đảng Cađê tuyên bố từ bỏ chủ trương trước đây là thiết lập chế độ quân chủ lập hiến và nước Nga cần phải trở thành một nước cộng hòa đại nghị và lập hiến”. Đại hội tuyên bố nhiệm vụ quan trọng nhất của đảng là thiết lập chính quyền duy nhất của Chính phủ lâm thời và tiếp tục cuộc chiến tranh đến thắng lợi hoàn toàn và triệt để đối với kẻ thù” Trong vấn đề dân tộc, Đảng Cađê chủ trương nước Nga thống nhất và không chia cắt; còn về vấn đề ruộng đất nhà nước sẽ chuộc lại một phần ruộng đất của địa chủ.

Những chủ trương có tính cương lĩnh của Đảng Cađê đã trở thành đường lối và chính sách của Chính phủ lâm thời.

Như thế, Đảng Cade và Chính phủ lâm thời đều không quan tâm giải quyết những đòi hỏi cấp bách mà nhân dân Nga mong muốn khi tiến hành cách mạng hòa bình, ruộng đất, tự do và bánh mì. Chính phủ lâm thời vẫn tiếp tục cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa, duy trì chế độ sở hữu ruộng đất lớn của giai cấp địa chủ, không ban hành luật làm việc 8 giờ đổi với công nhân và duy trì hầu như nguyên vẹn bộ máy nhà nước cũ của chế đồ Nga hoàng. Sau Cách mạng tháng Hai, số lượng đảng viên và ảnh hưởng của các đảng thỏa hiệp đã tăng lên rõ rệt. Đảng Xã hội – cách mạng có tới 800 nghìn người, Đảng mensêvích – 200 nghìn đảng viên.

Các Đảng Xã hội – cách mạng và Đảng mensêvích đều thay đổi lập trưởng, hoàn toàn ủng hộ Chính phủ lâm thời và chủ trương hợp tác với các đảng tư sản. Họ cho rằng, khi chế độ Nga hoàng bị sụp đổ thì cách mạng đã thành công, mục đích của cách mạng đã đạt được, như vậy không cần thiết và cũng không thể nói tới sự phát triển của cách mạng lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng ngày nay – cuộc cách mạng tư sản, theo họ phải thuộc về giai cấp tư sản. Họ còn lập luận: không thể đốt chảy giai đoạn và can thiệp thô bạo vào tiến trình tự nhiên của lịch sử.

Các đảng thỏa hiệp muốn tránh mọi sự xung đột với các đảng tư sản và chủ trương thỏa hiệp với các giai cấp các tăng lớp xã hội. Vì vậy, họ đã từ bỏ mọi yêu cầu căn bản của các cải cách quan trọng như xây dựng nhà nước mới, vấn đề ruộng đất với việc thủ tiêu chế độ sở hữu ruộng đất của địa chủ, chế độ ngày làm việc 8 giờ của công nhân. Trong chính sách đối ngoại, họ chủ trương nguyên tắc vệ quốc cách mạng có nghĩa là tiếp tục cuộc chiến tranh với các nước thuộc phe Đức. Như thế, các Đảng Xã hội – cách mạng và mensêvích đã công khai ủng hộ và trở thành chỗ dựa của Chính phủ lâm thời và giai cấp tư sản.

Từ sau Cách mạng tháng Hai, Đảng bônsêvích ra hoạt động công khai và lúc này số lượng đảng viên của Đảng còn ít ỏi (khoảng 24 nghìn người). Từ nước ngoài, V.I. Lênin theo dõi sát sao tình hình nước Nga và đã gửi nhiều thư cho Trung ương Đảng bônsêvích (sau này được tập hợp lại với tên gọi Thư từ nước ngoài gửi về), trong đó Người chỉ rõ sự cần thiết phải tiếp tục phát triển cách mạng tới giai đoạn thứ hai, giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đối với Chính phủ lâm thời, Lênin nhấn mạnh: Tuyệt đối không tín nhiệm, không ủng hộ chính phủ mới một chút nào cả, đặc biệt nghi ngờ Kêrenxki. Nhưng ở trong nước, nội bộ Đảng và cả trong những người lãnh đạo (như Camênhép, Xtalin…) lại có những nhận thức và quan điểm khác nhau. Một số ủng hộ quan điểm của Lênin, một số khác lại chủ trương “ủng hộ có điều kiện” Chính phủ lâm thời, gây áp lực, thăm chỉ mở những cuộc đàm phán hòa bình với Chính phủ lâm thời. Những quan điểm sai trái như thế có thể gây cho quần chúng những ảo tưởng đối với Chính phủ lâm thời và vẫn để cho giai cấp tư sản nắm chính quyền trong nước…

Cách mạng sẽ tiến lên như thế nào? Sự có mặt của lãnh tụ của Đảng – VI Lênin – đã trở thành một đòi hỏi hết sức cấp bách, không thể thiếu được để đưa cách mạng tiến lớn.

2. Luận cương tháng Tư của Lênin và đường lối của Đảng bônsêvích

Từ Thụy Sĩ, đêm 3-4-1917, Lênin về tới Petrográt. Ngày hôm sau 4-4-1917, tại diện Tavritrécxki trước Trung ương Đảng và Ban chấp hành đảng bộ Petrôgrát, Lênin đã trình bày bản báo cáo quan trọng “Nhiệm vụ của giai cấp vô sản trong cuộc cách mạng hiện nay” (sau này đã đi vào lịch sử với tên gọi Luận cương tháng Tư). Lênin đã bác bỏ cái gọi là “sự hoàn thành cách mạng dân chủ tư sàn”, rằng đó chỉ là một sự mị dân và tuyên bố Đảng phải nhanh chóng, lập tức tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Trước hết, Lênin cho rằng bước ngoặt ở nước Nga sẽ lôi cuốn hàng loạt cuộc cách mạng xã hội ở các nước phát triển phương Tây và sự ủng hộ từ các cuộc cách mạng đó sẽ cho phép khẳng định chủ nghĩa xã hội ở Nga. Hàng loạt các sự kiện cách mạng sôi nổi ở các nước Tây Âu sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đã khẳng định những dự đoán đúng dẫn của Lênin.

Đối với tình hình trong nước, Lênin tin rằng các đảng tư sản và thỏa hiệp sẽ không thể nhanh chóng và triệt để giải quyết các vấn đề cấp bách nhất của nước Nga lúc bấy giờ: ruộng đất cho nông dân, hòa bình cho nhân dân, bánh mì cho công nhân, tự do cho các dân tộc bị áp bức và chấm dứt chiến tranh.

Lênin cũng thấy rõ: khác với giai cấp tư sản Tây Âu đã trải qua trường học hoạt động nhà nước, giai cấp tư sản Nga còn non kém về chính trị.

Từ sự phân tích trên, Luận cương của Lênin đã đê ra đường lối chuyển biến từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là tư tưởng cơ bản xuyên suốt trong Luận cương và được dựa trên những căn cứ khoa học.

Luân cương đã lên án cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất mà nước Nga đang theo đuổi là “một cuộc chiến tranh cướp bóc có tính chất đế quốc chủ nghĩa…” và các nước tham chiến cần nhanh chóng chấm dứt chiến tranh, thiết lập một nền “hòa bình thật sự dân chủ”.

Vấn đề cơ bản của cách mạng là vấn đề chính quyền. Cần phải chấm dứt tình trạng hai chính quyền, trước mắt là “tuyệt đối không ủng hộ Chính phủ lâm thời” (vì còn dựa được vào sự ủng hộ của các Xô viết do bọn thỏa hiệp chiếm đa số) và sẽ tiến tới xóa bỏ nó; tập trung toàn bộ chính quyền về tay các Xô viết – “chính quyền cho giai cấp vô sản và những tầng lớp nghèo trong nông dân”.

Chế độ chính trị mới sẽ là chế độ Cộng hòa Xô viết đại biểu của công nhân và binh lính, chứ không phải trở lại chế độ cộng hòa đại nghị. Bởi đó “sẽ là một bước thụt lùi”.

Bằng khẩu hiệu “Tất cả chính quyền về tay các Xô viết” (trải qua hai bước: xóa bỏ Chính phủ lâm thời, tập trung quyền lực về tay các Xô viết; và sau đó cuộc đấu tranh sẽ diễn ra trong nội bộ các Xô viết – giữa những người bônsêvich và các phần tử thỏa hiệp mênsêvich và Xã hội cách mạng), cách mạng sẽ diễn ra bằng phương pháp hòa bình với tháng lợi cuối cùng của những người bônsêvich. Giải thích về khả năng phát triển hòa bình của cách mạng. Lênin viết: “Vũ khí nằm trong tay nhân dân, không có một bạo lực nào từ bên ngoài áp chế nhân dân cả, thực chất của tình hình là như thế. Tình hình đó đã mở ra và đảm bảo cho sự phát triển hòa bình của toàn bộ cuộc cách mạng. Cách mạng phát triển một cách hòa bình là một khả năng rất hiếm, rất quý báu, phải tận dụng nó và Lênin cũng nhắc nhở Đảng phải chuẩn bị lực lượng sẵn sàng, khi hoàn cảnh tạo ra khả năng đó có thể thay đổi.

Về kinh tế, Luận cương đề ra: tịch thu không bồi thường ruộng đất của địa chủ, quốc hữu hóa và giao cho các Xô viết nông dân quản lí; hợp nhất ngay tất cả các ngân hàng trong nước thành một ngân hàng quốc gia duy nhất dưới sự kiểm soát của các Xô viết, thực hiện việc kiểm soát của các Xô viết đối với sản xuất xã hội và phân phối sản phẩm.

Về xây dựng Đảng, Luận cương đề nghị đổi tên thành Đảng Cộng sản và thành lập một Quốc tế cách mạng mới của giai cấp công nhân.

Hội nghị toàn quốc bônsêvich họp cuối tháng 4 – 1917 đã tàn thành Luận cương của Lênin và coi đó là đường lối của toàn Đảng để tiến tới cách mạng xã hội chủ nghĩa. Toàn bộ sự phát triển của các sự kiện sau đó ở Nga đã khẳng định tính đúng đắn của những luận điểm và dự kiến của Lênin. Đảng bônsêvich bước vào một thời kì đấu tranh mới.

3. Cách mạng phát triển hòa bình dưới khẩu hiệu “Tất cả chính quyền về tay Xô viết” (từ tháng 3 đến tháng 7 – 1917)

Dưới ánh sáng của Luận cương tháng Tư, Đảng bônsêvich đã đẩy mạnh các hoạt động trong quần chúng. Nhiệm vụ quan trọng nhất của toàn Đảng là đấu tranh giành đa số quân chủng nhân dân, tiến tới thành lập một đội quân chính trị đông đảo đủ sức lật đổ giai cấp tư sản, cô lập và đánh bại các đảng thỏa hiệp mensêvich và Xã hội cách mạng.

Ngày 18-4 (tức 1-5), Bộ trưởng ngoại giao của Chính phủ lâm thời là Miliucốp đã gửi công hàm cho các nước đồng minh. Trong đó, Miliucốp cam kết Chính phủ lâm thời sẽ thi hành các hiệp ước mà Chính phủ Nga hoàng đa kị kết trước đây và nước Nga sẽ tiếp tục tham chiến cho đến thắng lợi cuối cùng. Công hàm của Chính phủ lâm thời đã gây nên sự cam phẫn lớn trong nhân dân và làm bùng nổ một làn sóng biểu tình của hơn 100 nghìn công nhân và binh lính ở Petrograt cùng nhiều thành phố khác. Chính phủ lâm thời bị khủng hoàng. Miliucốp và bộ trưởng chiến tranh Gusơcôp phải từ chức. Chính phủ lâm thời phải tiến hành cải tổ với sự tham gia của 4 đại biểu mensêvịch và Xã hội cách mạng cùng 10 đại biểu Đảng Cađê và Tháng Mười. Cuộc biểu tình tháng Tự không phải là một cuộc biểu tình thông thường và nó chứng tỏ lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Chính phủ lâm thời đã bắt đầu giảm sút. Sự kiện này còn chứng tỏ các đảng thỏa hiệp mensêvich và Xã hội cách mạng đã công khai đứng về phía giai cấp tư sản và đã cứu Chính phủ lâm thời trong cuộc khủng hoảng đầu tiên đó.

Ngày 3-6, Đại hội Xô viết toàn Nga lần thứ nhất được khai mạc tại Petrográt. Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành Trung ương toàn Nga với đa số thành viên là mensêvich và Xã hội cách mạng. Đại hội thông qua nghị quyết tán thành sự liên minh với giai cấp tư sản và ủng hộ các chính sách của Chính phủ lâm thời. Tại đại hội, chỉ có những người bônsêvich đòi chuyển toàn bộ chính quyền cho các Xô viết, và Lênin tuyên bố: Đảng bônsêvích sẵn sàng nắm lấy toàn bộ chính quyền.

Lời tuyên bố của Lênin càng được tăng thêm sức mạnh bởi một cuộc biểu tình tuần hành khổng lồ của gần 500 nghìn công nhân và binh lính ở Petrográt vào ngày 18-6 do những người bônsêvich tổ chức. Biểu tình còn diễn ra ở nhiều thành phố khác. Quần chúng biểu tình đã giương cao những khẩu hiệu bônsêvich để bày tỏ ý chí của mình trước nhưng nghị quyết sai trái của đại hội “Toàn bộ chính quyền về tay các Xô viết”, “Đả đảo các bộ trưởng tư bản”, “Đả đào chiến tranh”. Đó là một thắng lợi to lớn của Đảng bônsêvich , chứng tỏ giai cấp công nhân và binh lính ở thủ đô cùng nhiều nơi khác đã đi theo những người bônsêvích bởi họ không còn tin tưởng ở Chính phủ tư sản lâm thời cũng như các đảng thỏa hiệp mensêvich và Xã hội cách mạng

4. Tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền

Cùng ngày 18-6, Bộ trưởng chiến tranh Kêrenxki ra lệnh cho quân đội Nga mở một cuộc tấn công lớn ở mặt trận Tây-Nam. Cuộc tấn công đã bị thất bại nhanh chóng và tổn thất nặng nề. Tin thất bại bay về hậu phương làm cho nhân dân hết sức phẫn nộ và sục sôi khi thế đấu tranh.

Ngày 3–7, nhiều cuộc biểu tình của công nhân và binh lính đã tự phát nổ ra ở thủ đô, thậm chí còn muốn lật đổ Chính phủ lâm thời.

Ngày 4-7, một cuộc biểu tình khổng lồ đã diễn ra ở Petrográt. Hơn 500 nghìn công nhân, binh lính và lính thủy đã xuống đường. Mặc dầu cuộc biểu tình hoàn toàn mang tính chất hòa bình và có tổ chức, nhưng Chính phù lâm thời, được sự ủng hộ của các thủ lĩnh mensêvich và Xã hội cách mạng, đã ra lệnh cho quân đội và cảnh sát bắn vào đoàn biểu tình. Đường phố thủ đô đẫm máu công nhân và binh lính. Hơn 400 người bị chết và bị thương.

Đó là một sự kiện cực kì nghiêm trọng.

Được sự khuyến khích của các nước đế quốc, Chính phủ lâm thời quyết định chuyển sang tấn công đàn áp phong trào cách mạng, thiết lập một trật tự mới. Petrograt bị giới nghiêm. Các trung đoàn tham gia biểu tình bị tước vũ khí và đưa ra ngoài thủ đô. Quân đội từ mặt trận được gọi về. Các tòa báo của Đảng bônsêvich bị đóng cửa và bị đập phá. Hơn thế nữa, Chính phủ tư sản còn kết tội Lênin và nhiều nhà lãnh đạo Đảng bônsevich là “phản quốc, làm gián điệp cho Đức”. Bị truy nã, Lênin phải rời khỏi thủ đô và chuyển sang hoạt động bất hợp pháp. Nhiều đảng viên bônsêvích bị bắt và đưa ra tòa án.

Ngày 8-7, Chính phủ lâm thời cải tổ lớn thứ hai để thành lập một “chính phủ mạnh” do Kêrenxki đứng đấu. Các thủ lĩnh mensevich và Xã hội cách mạng lãnh đạo các Xô viết tuyên bố chính phủ mới là chính phủ của cách mạng và được toàn quyền hành động. Án tử hình ở mặt trận được khôi phục, các tòa án quân sự lưu động được thiết lập, các đơn vị quân đội còn kéo tới nhiều thành phố. Trên thực tế, quyền lực đã hoàn toàn về tay Chính phủ lâm thời, và như thế tình trạng hai chính quyền đã chấm dứt.

Cuộc đấu tranh đã chuyển sang một thời kì mới. Từ nay quyền lực quân sự – Lênin viết –  và do đó cả quyền lực nhà nước, thực sự đều chuyển sang tay phe phản cách mạng do bọn Dân chủ lập hiến đại diện và được bọn Xã hội cách mạng và bọn mensêvich ủng hộ. Từ nay, không còn có khả năng phát triển hòa bình cuộc cách mạng ở nước Nga nữa và lịch sử đặt vấn đề như thế này: “hoặc là phe phản cách mạng hoàn toàn thắng lợi, hoặc là phải có một cuộc cách mạng mới”.

Sự kiện đầu tháng Bảy đã đánh dấu một bước ngoặt trong tình hình nước Nga. Sự phân cực của các lực lượng giai cấp và chính trị không ngừng tăng lên. Trong khi đó, cuộc chiến tranh vẫn được Chính phủ làm thời tiếp tục càng đẩy nước Nga lún sau hơn nữa vào khủng hoảng kinh tế và chính trị.

Đảng bônsêvich triệu tập Đại hội VI (từ 26-7 đến 3-8-1917) tại Pêtrôgrat. Đại hội phải họp bí mật. Vì bị truy nã, Lênin không tham dự đại hội song những bài viết, những ý kiến của Người đã trở thành cơ sở cho các nghị quyết của đại hội.

Vấn đề trung tâm của đại hội là phân tích tình hình chính trị đã thay đối ở trong nước và xác định đường lối sách lược mới cùng khẩu hiệu chính trị mới của đảng. Đại hội quyết định tạm thời rút khẩu hiệu “Toàn bộ chính quyền về tay các Xô viết” (nhưng không có nghĩa là đảng từ bỏ chế độ Cộng hòa Xô viết như một hình thức nhà nước mới của chuyên chính vô sản) do các Xô viết bị các phần tử mensêvích và Xã hội cách mạng lũng đoạn đã trở thành cái đuôi phụ thuộc vào giai cấp tư sản. Những người bônsêvich vẫn ở lại trong các Xô viết để vạch trần sự phản bội của bọn thỏa hiệp và lôi kéo quần chúng về phía cách mạng. Đại hội xác định khẩu hiểu chính trị mới của đảng là “Lật đổ nền chuyên chính của giai cấp tư sản bằng con đường khởi nghĩa vũ trang!”. Nhiệm vụ chính trị đặt ra trước toàn đảng lúc này là: chuẩn bị và tiến tới khởi nghĩa vũ trang của giai cấp công nhân và nông dân nghèo để lật đổ Chính phủ lâm thời, thiết lập nên chuyên chính vô sản, đưa đất nước thoát ra khỏi cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa.

Đảng bônsevich đã phát triển nhanh chóng về số lượng. Trong ba tháng kể từ Hội nghị tháng Tư, các tổ chức đảng đã tăng từ 78 lên 162 cơ sở với 240 nghìn đảng viên.

Trong khi đó, các thế lực phản động phái hữu lại theo đuổi một đường lối khác là thiết lập nên độc tài quân sự, bởi các biện pháp của chính phủ làm thời nhằm chống lại tình trạng rối ren, không ổn định, ngày càng tỏ ra không có hiệu quả.

Nhằm tập hợp và củng cố lực lượng, ngày 12-8 Chính phủ lâm thời đã triều tập Hội nghị quốc gia tại Matxcova. Tham dự hội nghị có đại biểu của giai cấp tư sản và địa chủ, nhà thờ, các sĩ quan và tướng lĩnh, các cựu đại biểu Đuma quốc gia trước kia và ban lãnh đạo các Xô viết. Theo lời kêu gọi của Đảng bônsêvich, đúng ngày khai mạc hội nghị, giai cấp công nhân ở Matxcova với khoảng 400 nghìn người đi tổng đình công để phản đối và ngăn chặn âm mưu phản cách mạng của giai cấp tư sản. Đấu tranh và đình công cũng diễn ra ở nhiều thành phố khác. Tình hình đó càng thúc đẩy giai cấp tư sản thực hiện âm mưu thiết lập chế độ độc tài quân sự và tướng Coocnilốp (vốn là một tù binh trốn thoát từ Áo và vừa được cử làm Tổng tư lệnh quân đội Nga vào tháng 7-1917) trở thành nhân vật trung tâm của hội nghị. Đại sứ Anh tại Nga là G. Buycơnen đã ủng hộ âm mưu đó. Ngay sau hội nghị, Coócnilốp đa ra lệnh giải thể 50 sư đoàn không còn khả năng chiến đấu” (thực ra đó là các sư đoàn chịu ảnh hưởng của cách mạng) và thành lập 33 sư đoàn xung kích được coi là lực lượng chủ yếu để đối phó với phong trào cách mạng.

Ngày 25 8-1917, với sự thỏa thuận bí mật của Kerenxki, Coócnilốp đã điều quân đoàn kị binh của tướng Crưmôp và hai sư đoàn kị binh khác từ mặt trận phía tây tiến về Petrográt với cái cớ được tung ra là “hình như những người bônsevích sẽ nổi dậy khởi nghĩa vào ngày 27-8 nhân kỉ niệm nửa năm thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Hai”.

Nhưng ngày hôm sau, Kêrenxki được tin là sau khi tiến vào Pêtrôgrat, Coócnilốp sẽ tuyên bố thiết quân luật toàn thủ đô và không chỉ công khai đánh tan Đảng bônsêvich, thủ tiêu các Xô viết mà còn giải tán Chính phủ lâm thời, nắm toàn bộ quyền lực dân sự và quân sự trong tay, thiết lập một chính phủ độc tài quân sự. Ngày 27-8, Kêrenxki tuyên bố: các đơn vị cùa Coócnilốp hành quân về Petrograt làm phiến loạn sẽ bị trừng phạt và cách chức tổng tư lệnh quân đội của Coócnilốp.

Coi Coócnilốp là kẻ thù nguy hại nhất, Đảng bônsêvich đã kêu gọi và tổ chức giai cấp công nhân và nhân dân bảo về thủ đô Petrôgrát. Công nhân đường sắt phá hoại ngắm của đoàn tàu chuyên chở quân phiên loạn. Các đội Cận vệ đỏ – lực lượng vũ trang của công nhân được nhanh chóng thành lập ở các nơi. Công nhân canh giữ bảo vệ các nhà máy và nhà ga xe lửa. Quần chúng nhân dân đào chiến hào, dựng chướng ngại vật và bóc cả đường sắt. Nhờ sự tuyên truyền giải thích của những người bônsêvich và công nhân, các đơn vị quân đội của Coonilốp đã ngả về phu nhân dân từ chối tiến về thủ đô và bắt giữ các quân phản động. Tướng Crưmôp bị xử bắn, còn Coócnilốp bị bắt giam.

Cuộc nổi loạn của Coócnilốp đã bị đập tan. Âm mưu của giai cấp tư sản muốn thiết lập chế độ độc tài và dùng lực lượng quân sự đè bẹp phong trào cách mạng đã bị thất bại nặng nề. Lực lượng so sánh giai cấp trong nước đã có những chuyển biến rõ rệt, ngày càng có lợi cho các lực lượng cách mạng. Đó là thời kì “bônsêvich hóa” các Xô viết, mà khởi đầu là ngày 31-8 Xô viết Petrográt lần đầu tiên thông qua nghị quyết tán thành lập trường của Đảng bônsêvich là chuyển toàn bộ chính quyền tay các Xô viết và quy định thay thế các đại biểu mensêvích và Xã hội cách mạng bằng những người bônsêvich trong ban lãnh đạo Xô viết. Sau đó từ tháng 9, Xô viết Matxcova cùng nhiều thành phố, nhiều địa phương khác đều có những thay đổi như Xô viết Petrográt. Chỉ trong một thời gian ngắn, đã có trận 250 Xô viết đi theo lập trường bônsêvích. Đồng thời, ngay trong thời kì đấu tranh chống Coocnilốp, số lượng các Xô viết ở trong nước đã tăng lên nhanh chóng 600 Xô viết vào tháng Ba lên tới 1600 Xô viết trong tháng Chín. Tới lúc này, Đảng bônsêvich quyết định đưa trở lại khẩu hiệu “Tất cả chính quyền về tay các Xô viết”, nhưng với nội dung mới là tiến hành khởi nghĩa vũ trang lật đổ Chính phủ lâm thời và giành toàn bộ chính quyền.

Đảng bônsêvich tích cực chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang.

5. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười

Từ mùa thu năm 1917, nước Nga đã lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị hết sức trầm trong. Nền kinh tế đất nước thực sự đứng trước thảm họa, sản xuất công nghiệp chỉ bằng 36,4% so với năm trước. Giao thông vận tài hầu như bị tê liệt. Nạn đói đã xảy ra ở nhiều vùng trong nước, nhất là ở các thành phố. Các mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt. Phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân, binh lính và các dàn tộc thiểu số diễn ra sôi nổi, dồn dập với quy mô rộng lớn. Một tình thế cách mạng đã hình thành ở trong nước, khi quần chúng nhân dân bên dưới đã không thể sống tiếp tục như trước đây, các giai cấp thống trị đã lún sâu vào khủng hoảng không thể tiếp tục thống trị như trước.

Sau vụ nổi loạn của Coocnilốp, nền thống trị của giai cấp tư sản bị lung lay dữ dội. Nhằm cũng cố địa vì thống trị và cố gieo rắc những ảo tưởng dân chủ trong nhân dân để mong ổn định tình hình trong nước, ngày 1-9-1917 nước Nga tuyên bố là một nước cộng hòa với chế độ Đốc chính gồm năm bộ trưởng do Kerenxki cầm đầu. Nhưng phải tới gần một tháng, ngày 25-9 Kerenxki mới lập được nội các mới. Chính phủ lâm thời và các đáng thỏa hiệp còn triệu tập cái gọi là “Hội nghị dân chủ” để lập ra Tiền nghị viện – với dụng ý là nước Nga đã thực hiện chế độ nghị viện. Những người bônsêvich đã tẩy chạy cả Hội nghị dân chủ lần Tiền nghị viện.

Tới nửa tháng 9, Lênin nhân định: “Hiện nay, tình thế đã thay đổi khác hẳn. Chúng ta đã giành được đa số trong giai cấp đứng làm đội tiên phong của cách mạng, đội tiên phong của nhân dân và có khả năng lối cuốn quần chúng theo mình. Chúng ta đã giành được đa số trong nhân dân. Thắng lợi chắc chắn thuộc về chúng ta”.

Nước Nga đã tiến sát tới một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Theo quyết định của Trung ương Đảng bônsêvich, ngày 7-10-1917 Lênin từ Phần Lan đã bí mật trở về Petrográt để trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa .

Trong hai cuộc họp vào ngày 10 và 16-10, Trung ương Đảng bônsêvich đã thông qua nghị quyết khởi nghĩa vũ trang. Hội nghị đã bác bỏ những ý kiến của Dinôviép và Camênhép về cách mạng sẽ phát triển hòa bình (thông qua cuộc bầu cử vào Tiền nghị viện và dựa vào quá trình “bônsêvich hóa” các Xô viết mà năm chính quyền) và đưa ra quan điểm cũng như của Trốtxki là khởi nghĩa cần lùi lại để sau Đại hội Xô viết toàn Nga lần thứ hai (để Đại hội biểu quyết về vấn đề chính quyền). Thực chất của cả hai ý kiến này là không tán thành nghị quyết về khởi nghĩa vũ trang.

Ngày 12-10, Xô viết Petrográt đã cử ra Ủy ban quân sự cách mạng để chỉ đạo việc chuẩn bị và tiến hành khởi nghĩa vũ trang ở thủ đô. Ngày 16-10, Trung ương Đảng bônsêvich thành lập Trung tâm quân sự cách mạng để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa trong cả nước gồm A. Bupnốp. F. Đdécginxki, Ia. Xvéclop, I. Xtalin. M. Uritki.

Các tổ chức đảng bộnsêvich đã tích cực triển khai những công việc cần thiết trên các mặt chính trị – tư tưởng tổ chức và kĩ thuật – quân sự để tiến tới khởi nghĩa vụ trang.

Ngày 10-10, trong bài trả lời phỏng vấn của tờ báo Đời sống mới (nửa mensêvich), Camênhép và Dinôviép đã kể lại việc họ không tin thành nghị quyết khởi nghĩa vũ trang của Trung ương Đảng bônsêvich. Câu trả lời đó như một tiết lộ được báo trước để chính phủ nhanh chóng thi hành những biện pháp khẩn cấp nhằm đập tan các lực lượng cách mạng. Từ mặt trận, 70 tiểu đoàn xung kích và một số trung đoàn độc lập được điều động về bảo vệ những trung tâm lớn như Pêtrográt, Mátxcơva, Kiép, Minxcơ…

Ngày 24-10, Chính phủ lâm thời bắt giam các ủy viên của Ủy ban quân sự cách mang lục soát và đóng cửa các tờ báo của Đảng bônsêvich, ra lệnh chiếm diễn Xmônui… Cùng ngày, Kerenxki tuyên bố Chính phủ làm thời sẽ áp dụng mọi biện pháp để tiêu diết cuộc khởi nghĩa ở Pêtrôgrat.

Trước tình hình đã trở nên hết sức khẩn trưởng và cực kì nghiêm trọng, Lênin chủ trương phải tiến hành khởi nghĩa ngay. Trong ngày 24-10 Lênin đã ba lần gửi thư tới Trung ương Đảng bộnsêvich với yêu cầu là phải khởi nghĩa ngay trong đêm đó. Nửa đêm, Lênin đến điện Xmônưi để trực tiếp chỉ đạo cuộc khởi nghĩa ở thủ đô. Cuộc khởi nghĩa đã bắt đầu.

Trong đêm 24 và ngày 25, các đơn vị Cận vệ đỏ của công nhân, binh lính cách mạng và thủy binh hạm đội Ban Tích (tất cả khoảng 200 nghìn người) đã đánh chiếm các vị trí then chốt ở thủ đô – các cầu qua sông Neva, nhà ga xe lửa, trung tâm bưu điện, nhà máy điện. Ngân hàng quốc gia và các cơ quan quan trọng khác ở thủ đô. Tới sáng 25-10, trừ Cung điện mùa Đông và một vài nơi, các lực lượng khởi nghĩa đã làm chủ tình hình ở thủ đô.

Đêm 25-10, quân khởi nghĩa tiến đánh Cung điện mùa Đông Các Bộ trưởng của Chính phủ lâm thời đã bị bắt giữ. Cuộc khởi nghĩa ở Petrôgrat đã giành được thắng lợi hoàn toàn.

Cùng vào đêm 25-10, Đại hội Xô viết toàn Nga lần thứ II đã khai mạc. Đại hội thông qua lời kêu gọi “Gửi công nhân, binh lính và nông dân” do Lênin dự thảo. Đại hội ra quyết nghị: các Xô viết đại biểu công nhân, binh lính và nông dân có trách nhiệm bảo đảm trật tự cách mạng thật sự.

Tối 26-10, trong buổi họp thứ hai Đại hội đã thông qua hai văn kiện đầu tiên của Chính quyền Xô viết – Sắc luật hòa bìnhSắc luật ruộng đất do Lênin dự thảo. Sắc luật hòa bình lên án cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa là “một tội ác lớn nhất đối với nhân loại và đề nghị các nước tham chiến hãy nhanh chóng đàm phán để kí kết một hòa ước dân chủ và công bằng – không có thôn tính đất đai và bồi thường chiến tranh. Sắc luật ruộng đất tuyên bố thủ tiêu không bối thường ruộng đất của giai cấp địa chủ quý tộc và của các sở hữu lớn khác, quốc hữu hóa toàn bộ ruộng đất Đại hội đã cử ra Chính phủ Xô viết đầu tiên, được gọi là Hội đồng ủy viên nhân dân, do Lênin đứng đầu.

Tiếp theo tháng lợi ở Petrográt. Chính quyền Xô viết đã được thành lập ở Mátxcơva và sau đó ở khắp mọi miền đất nước. Do sự kháng cự điên cuồng của kẻ thủ, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Matxcơva phải kéo dài từ 26-10 đến 3-11-1917. Nhưng sau đó, với thắng lợi ở hai trung tâm quan trọng là Petrográt và Matxcơva, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền và thành lập Chính quyền Xô viết ở các địa phương trong nước diễn ra mạnh mẽ. Tới cuối tháng 11, Chính quyền Xô viết đã được thành lập ở 28 tỉnh (trong tổng số 49 tỉnh) thuộc phần lãnh thổ châu Âu của nước Nga. Đến cuối tháng 3-1918, Chính quyền Xô viết đã giành được thắng lợi hoàn toàn trên phạm vi nước Nga rộng lớn. Đó là “thời kỳ – như Lênin gọi  – tiến quân thắng lợi rực rỡ” của chính quyền Xô viết.

IV – CUỘC ĐẤU TRANH ĐỂ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN XÔ VIẾT

=> Xem Tại đây.

V- Ý NGHĨA LỊCH SỬ TRỌNG ĐẠI CỦA CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI

Cuộc Cách mang xã hội chủ nghĩa Mười Nga năm 1917 có ý nghĩa lịch sử trọng đại, không những với nước Nga mà còn đối với thế giới. Cách mạng tháng Mười đã mở ra một kỉ nguyên mới đối với nước Nga – kỉ nguyên giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc không phải Nga được giải phóng, thoát khỏi mọi gông xiềng nô lệ, “đứng lên làm chủ đất nước và vận mệnh của mình”. Một chế độ xã hội mới – chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa – đã được thiết lập với mục tiêu cao cả là xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng một xã hội tự do, hạnh phúc và công bằng cho mọi người lao động.

Lịch sử nước Nga đã sang chương mới.

Cách mạng tháng Mười Nga đã có ảnh hưởng mạnh mẽ tới tiến trình lịch sử và cục diện thế giới. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười và sự ra đời của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Xô viết đã làm cho chủ nghĩa tư bản không còn là một hệ thống hoàn chỉnh bao trùm thế giới. Thế giới đã phân chia thành hai hệ thống xã hội đối lập – hệ thống xã hội tư bản chủ nghĩa và hệ thống xã hội xã hội chủ nghĩa.

Cách mạng tháng Mười đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng của giai cấp công nhân các nước, chỉ ra cho họ con đường đi tới thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Ngay sau tháng lợi của Cách mạng tháng Mười, một cao trào cách mạng vô sản đã dãy lớn sôi nổi ở châu Âu trong những năm 1918-1923, làm chấn động dữ dội nên thống trị của giai cấp tư sản độc quyển ở nhiều nước.

Cách mạng tháng Mười đã mở ra một thời kì mới trong lịch sử đầu tranh giải phóng của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc ở châu Á, châu Phi và Mĩ la tinh. Thực tiễn của Cách mạng tháng Mười không những đã thức tỉnh và cổ vũ mạnh mẽ ý chí đấu tranh mà còn chỉ ra con đường đúng dẫn đi tới thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Một xu hướng mới đã xuất hiện trong phong trào giải phóng dân tộc ở nhiều nước xu hướng đi theo ngọn cờ tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin với nhận thức mới: phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới, tính tất yếu của sự kết hợp chặt chẽ giữa phong trào cách mạng của giai cấp vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc trong cuộc đấu tranh chống thù chung là chủ nghĩa tư bản để quốc. Nhờ đó, phong trào giải phóng dân tộc ở nhiều nước đã phát triển mạnh mẽ và giành được những tháng lợi quan trọng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Giống như mặt trời chói lọi. Cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.

Cách mạng tháng Mười đã đáp ứng những đòi hỏi cấp bách trong cuộc đấu tranh giải phóng của các giai cấp bị bóc lột và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.

Nguồn: Nguyễn Anh Thái, Lịch sử thế giới hiện đại 1917-1995, NXB Giáo dục

Rate this post

Leave A Reply

Your email address will not be published.