Sở giáo dịch chứng khoán là gì? Tổ chức và nguyên tắc hoạt động

0

1. Khái niệm và cơ cấu tổ chức sở giao dịch chứng khoán

Sở giao dịch chứng khoán (Securities Exchange/ Bourse) là nơi gặp gỡ giữa các nhà môi giới chứng khoán để thoả thuận, thương lượng, đấu giá mua bán chứng khoán.

Sở giao dịch chứng khoán là một tổ chức cung cấp các phương tiện, dịch vụ, cơ sở vật chất… cho những nhà môi giới chứng khoán hoặc những thành viên giao dịch để mua bán chuyển nhượng chứng khoán.

Sở giao dịch chứng khoán là một định chế có chức năng tổ chức thực hiện và quản lý giao dịch chứng khoán của các đơn vị thành viên của TTCK tập trung.

Đặc điểm của sở giao dịch chứng khoán (SGDCK):

– SGDCK là một định chế, một tổ chức, một cơ quan phục vụ cho việc giao dịch các loại chứng khoán. Để thực hiện chức năng này, sở có nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất và tổ chức bộ máy nhân sự… phù hợp với trình độ và quy mô phát triển của thị trường nhằm phục vụ các giao dịch mua bán chứng khoán của các thành viên được thực hiện một cách an toàn và hiệu quả.

– Các chứng khoán được giao dịch trên SGDCK bao gồm: cổ phiếu được phát hành bởi các công ty, các chứng chỉ quỹ, trái phiếu và các sản phẩm đầu tư khác. Để một loại chứng khoán có thể mua bán trên SGDCK thì chứng khoán đó phải hoàn tất thủ tục niêm yết trên

– SGDCK là bộ phận quan trọng nhất của thị trường chứng khoán, nó không phải là một pháp nhân kinh doanh chứng khoán, tuyệt nhiên không mua vào và cũng không bán ra bất kỳ một loại chứng khoán nào đang giao dịch trên thị trường.

– Tùy theo sự phát triển của thị trường và cơ chế quản lý của nhà nước mà SGDCK được tổ chức theo một hình thức nhất định như: đơn vị sự nghiệp có thu, doanh nghiệp (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần)… Thông thường, SGDCK là một tổ chức có tư cách pháp nhân, được thành lập và hoạt động theo qui định của pháp luật, tự chủ về tài chính.

2. Tổ chức SGDCK

2.1. Hình thức tổ chức SGDCK

– Hình thái sơ khai ban đầu của SGDCK là các câu lạc bộ mini. Câu lạc bộ là nơi mà các thương gia, sau này là những người kinh doanh, môi giới chứng khoán gặp gỡ để giao dịch. Ở đó đó họ thống nhất với nhau những nội dung có tính chất quy ước liên quan tới các giao dịch chứng khoán. Hoạt động của câu lạc bộ này không có tư cách một pháp nhân và hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận.

Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường nói chung cũng như các giao dịch chứng khoán nói riêng, hình thái câu lạc bộ mini đã dần bị thay thế bởi các hình thức ưu việt hơn.

– Hình thức sở hữu thành viên: Được tổ chức như một công ty TNHH trong đó thành viên góp vốn và sở hữu là các công ty chứng khoán. Các công ty chứng khoán thành viên sẽ cử ra hội đồng quản trị để quản lý và điều hành các hoạt động của sở. Thuộc hình thức này là các SGDCK khoán Hàn Quốc, New York, Tokyo, Thái Lan,…

– Hình thức công ty cổ phần: Được tổ chức như một công ty cổ phần đặc biệt. Cổ đông chủ yếu là các công ty chứng khoán thành viên, ngoài ra còn có cổ đông là các ngân hàng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm. Thuộc hình thức này là các SGDCK Đức, Malaixia, London, Hongkong,…

– Hình thức sở hữu nhà nước: Với hình thức sở hữu này, Nhà nước sở hữu phần lớn hoặc toàn bộ tài sản của SGDCK. Nhà nước cử đại diện trực tiếp tham gia quản lý và điều hành các hoạt động của SGDCK. Thuộc hình thức này là các SGDCK Istalbun, Warsawar,…

2.2. Cơ cấu tổ chức của sở giao dịch chứng khoán

Chức năng cơ bản nhất của SGDCK là tổ chức các hoạt động giao dịch chứng khoán. Vì vậy, hầu hết các SGDCK đều được tổ chức theo mô hình dưới đây:

Mô hình tổ chức của SGDCK

Mô hình tổ chức của SGDCK

Đại hội cổ đông: Là cơ quan quyền lực cao nhất và có toàn quyền trong việc đưa ra các quyết định liên quan tới hoạt động của

Hội đồng quản trị: Thành viên hội đồng quản trị bao gồm đại diện của các công ty chứng khoán thành viên và một số các đại diện không phải là thành viên như tổ chức niêm yết, các nhà chuyên môn, nhà kinh doanh, chuyên gia luật và đại diện của Chính phủ.

Chức năng, quyền hạn của hội đồng quản trị của SGDCK được thể hiện ở các nội dung:

  • Đình chỉ và rút giấy phép thành viên.
  • Chấp nhận, đình chỉ hoặc hủy bỏ niêm yết chứng khoán.
  • Phê chuẩn kế hoạch và ngân sách hàng năm của
  • Xây dựng, ban hành và sửa đổi các quy chế hoạt động của
  • Giám sát hoạt động của các thành viên
  • Xử phạt các hành vi, vi phạm quy chế hoạt động của
  • Ủy quyền cho tổng giám đốc một số công việc điều hành hoạt động của SGDCK.

Thông thường nhiệm kỳ của chủ tịch hội đồng quản trị và ủy viên kiêm giám đốc điều hành là 3 – 4 năm, nhiệm kỳ của các đại diện cho công chúng thường ngắn hơn.

– Ban giám đốc điều hành: Ban giám đốc điều hành bao gồm tổng giám đốc và các phó tổng giám đốc điều hành và phụ trách các lĩnh vực hoạt động của

Chức năng của ban giám đốc là trực tiếp điều hành các hoạt động thường nhật của SGDCK, giám sát hành vi của các thành viên, dự thảo các quy định và quy chế của SGDCK. Hoạt động của ban giám đốc được thực hiện một cách độc lập nhưng chịu sự chỉ đạo trực tiếp của hội đồng quản trị.

– Bộ phận quản lý giao dịch: tổ chức và triển khai hoạt động trên các lĩnh vực cơ bản sau:

  • Tổ chức phân tích và báo cáo hoạt động và diễn biến của thị trường.
  • Duy trì sàn giao dịch và các hệ thống trực thuộc sàn giao dịch.
  • Xây dựng và điều chỉnh thời gian giao dịch, biên độ giá, giá tham chiếu.
  • Quản lý các giao dịch chứng khoán.

– Bộ phận quản lý niêm yết thực hiện các chức năng:

  • Xây dựng và điều chỉnh hệ thống các tiêu chuẩn niêm yết chứng khoán.
  • Kiểm tra, chấp nhận hoặc hủy bỏ niêm yết chứng khoán.
  • Phân tích các báo cáo tài chính của các tổ chức niêm yết.
  • Phân loại niêm yết chứng khoán theo nhóm ngành, xây dựng mã số chứng khoán niêm yết.
  • Đề nghị xử lý theo các hình thức khác nhau đối với các chứng khoán vi phạm chế độ niêm yết và các quy định khác của
  • Thu phí niêm yết (bao gồm phí niêm yết lần đầu và phí quản lý niêm yết hàng năm).

– Bộ phận quản lý thành viên:

  • Xem xét, chấp nhận, đình chỉ hoặc bãi miễn tư cách thành viên.
  • Phân loại thành viên.
  • Thu và quản lý thu phí thành viên và các quỹ khác theo quy định hiện hành.
  • Tổ chức phân tích và đánh giá hoạt động của các thành viên.

– Bộ phận công nghệ thông tin hoặc tin học:

  • Tổ chức nghiên cứu, lập kế hoạch và triển khai các chương trình phát triển hệ thống điện toán.
  • Tổ chức quản lý và vận hành hệ thống điện toán.
  • Tổ chức quản lý thông tin thị trường qua hệ thống điện tử, mạng Internet… Ngoài các bộ phận chức năng cơ bản trên, cơ cấu tổ chức của sở giao dịch chứng khoán còn bao gồm khối văn phòng, các tiểu ban hỗ trợ…

3. Thành viên của sở giao dịch chứng khoán

Một sở giao dịch chứng khoán có thể có nhiều nhóm thành viên khác nhau, chẳng hạn như thành viên giao dịch, thành viên niêm yết, thành viên lưu ký… Trên thị trường chứng khoán, một tổ chức có thể được giữ một hoặc nhiều trọng trách thành viên nêu trên. Tuy nhiên, khi nói đến thành viên của sở giao dịch chứng khoán, người ta thường hiểu đó là thành viên giao dịch.

Định nghĩa: Thành viên giao dịch của sở giao dịch chứng khoán là các tổ chức và cá nhân được chấp nhận là thành viên trực tiếp thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán tại sở giao dịch chứng khoán.

Ở một số nước phát triển như Mỹ, EU, thành viên giao dịch của sở giao dịch chứng khoán bao gồm cả tổ chức và cá nhân (các công ty môi giới chứng khoán, các chuyên gia, nhà môi giới độc lập, các nhà tạo thị trường…), trong khi đó, ở một số sở giao dịch chứng khoán của các nước khác chỉ chấp nhận thành viên là tổ chức.

* Điều kiện để trở thành thành viên của sở giao dịch chứng khoán

Đối với thành viên là cá nhân: Với các nước khác nhau, tùy theo trình độ phát triển của nền kinh tế nói chung, thị trường chứng khoán nói riêng, và cơ chế hoạt động của thị trường mà có các quy định khác Tuy nhiên, nhìn chung đối với thành viên là cá nhân phải thỏa mãn các điều kiện, tiêu chuẩn như sau:

  • Phải có chứng chỉ hành nghề môi giới chứng khoán và phải được sở giao dịch chứng khoán chấp thuận và cấp phép hoạt động.
  • Có tư cách đạo đức, sức khoẻ tốt, có kiến thức kinh tế, tài chính, pháp luật và phải trải qua một khoá đào tạo về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
  • Có đủ năng lực tài chính thể hiện bằng một trong các hình thức sau: ký quỹ; hoặc có tài sản thế chấp tại một tổ chức tín dụng được chỉ định; hoặc được một ngân hàng hay công ty tài chính đứng ra bảo lãnh.

Đối với thành viên là tổ chức

  • Phải có hồ sơ xin gia nhập sở giao dịch chứng khoán và được cấp phép hoạt động.
  • Phải có cơ sở vật chất kỹ thuật và lực lượng nhân sự cần thiết để hoạt động (trang thiết bị, phương tiện thông tin, đội ngũ cán bộ, nhân viên môi giới…).
  • Phải có vốn điều lệ đạt ở một mức nhất định theo quy định hiện hành.
  • Chấp hành đầy đủ các qui định, điều lệ của sở giao dịch chứng khoán.

* Quyền hạn và trách nhiệm của thành viên

  • Bỏ phiếu quyết định các vấn đề quan trọng của sở giao dịch chứng khoán (nếu Sở được tổ chức theo mô hình công ty cổ phần).
  • Trực tiếp thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán tại sàn giao dịch của sở giao dịch chứng khoán cho khách hàng.
  • Sử dụng các dịch vụ do sở giao dịch chứng khoán cung cấp như sử dụng các trang thiết bị, thông tin…
  • Bầu đại biểu đại diện tham gia hội đồng quản trị của sở giao dịch chứng khoán.
  • Đóng lệ phí thành viên và tuân thủ các qui định của sở giao dịch chứng khoán.

4. Các nguyên tắc hoạt động của sở giao dịch chứng khoán

4.1. Nguyên tắc công khai

Tất cả hoạt động trên thị trường chứng khoán đều phải đảm bảo tính công khai. Chứng khoán là loại hàng hoá đặc biệt, người đầu tư không thể đánh giá được chất lượng và độ tin cậy của chứng khoán nếu như không có thông tin về nó. Do đó, TTCK phải được vận hành trên cơ sở thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác và liên tục.

– Các thông tin cần phải được công khai:

  • Công khai về tổ chức niêm yết. Các tổ chức niêm yết có nghĩa vụ công khai tất cả các thông tin về doanh nghiệp như tiểu sử, trình độ học vấn và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của ban lãnh đạo; tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh; các kế hoạch huy động vốn và đầu tư; tình hình cổ tức hàng năm;  những thay đổi về nhân sự; định hướng, chiến lược phát triển…
  • Công khai về diễn biến của thị trường. Tất cả các diễn biến của thị trường phải được cập nhật thường xuyên và công bố kịp thời như: tình hình giao dịch trong phiên giao dịch, các chỉ số của thị trường, những thay đổi về cơ chế giao dịch của thị trường…

– Các yêu cầu về công khai thông tin:

+ Đầy đủ, chính xác: Thông tin đầy đủ, chính xác về chứng khoán và thị trường chứng khoán giúp nhà đầu tư đưa ra các quyết định đầu tư thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. Nếu các thông tin không đầy đủ, không chính xác có thể dẫn tới các quyết định sai lầm.

Tính chính xác của thông tin trước hết thể hiện ở tính chính thức của thông tin, tức là thông tin phải do người có thẩm quyền công bố và các thông tin đã được kiểm định, phê duyệt. Tính chính xác của thông tin còn được thể hiện ở việc thông tin đó có phản ánh đúng tình hình của tổ chức phát hành hay không. Công bố thông tin đòi hỏi phải tôn trọng tính trung thực vốn có của thông tin, không được xuyên tạc, bóp méo thông tin hoặc có hành vi cố ý gây hiểu nhầm thông tin.

Tính đầy đủ là một trong những tiêu chí quan trọng đánh giá chất lượng thông tin. Thực tế cho thấy, có công ty chỉ công bố những thông tin tốt, mà không công bố những thông tin xấu, bất lợi cho tổ chức phát hành, dẫn đến thông tin mà nhà đầu tư nhận được không đầy đủ. Điều này có thể ảnh hưởng ở mức độ nhất định đến giá cổ phiếu, và những người nắm được thông tin sẽ có thể trục lợi.

+ Kịp thời và liên tục: Tính kịp thời và liên tục cũng là một đặc tính cấu thành chất lượng thông tin. Các thông tin phải đảm bảo được đưa ra trong một thời gian nhất định và hợp lý kể từ khi phát sinh thông tin. Việc công bố thông tin kịp thời giúp nhà đầu tư tránh được những hiểu lầm đáng tiếc từ những tin đồn trên thị trường, góp phần giảm bớt các giao dịch nội gián. Một thông tin đưa ra mặc dù đã chính xác và đầy đủ nhưng nếu không kịp thời có thể là nguyên nhân làm sai lệch giá chứng khoán, hoặc dẫn đến các giao dịch nội gián. Chỉ cần thông tin bị rò rỉ trước một ngày, thậm chí một vài giờ đã dẫn đến những giao dịch không công bằng, gây thiệt hại cho các nhà đầu tư chân chính. Vì vậy, để đảm bảo tính kịp thời, liên tục, luật pháp về chứng khoán và thị trường chứng khoán các nước thường ban hành các quy định về thời hạn và quy trình công bố thông tin và đòi hỏi các tổ chức có trách nhiệm cung cấp thông tin phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định này.

+ Dễ tiếp cận: Với yêu cầu này, hệ thống phương tiện công bố thông tin phải đa dạng để đáp ứng nhu cầu tiếp cận nhanh chóng của các nhà đầu tư và những chủ thể khác liên Các kênh thông tin về chứng khoán và thị trường chứng khoán thường bao gồm: truyền thanh, truyền hình, báo chí, trang thông tin điện tử…

4.2. Nguyên tắc trung gian

Các giao dịch trên thị trường chứng khoán tập trung không được thực hiện trực tiếp giữa các nhà đầu tư, mà phải thông qua các tổ chức trung gian hay nhà môi giới. Nhà môi giới thực hiện giao dịch theo lệnh của khách hàng và hưởng hoa hồng.

Thực hiện nguyên tắc này, về phía nhà đầu tư: muốn mua bán chứng khoán qua sở giao dịch chứng khoán phải mở tài khoản tại một công ty chứng khoán thành viên, mỗi khi mua bán phải đặt lệnh qua công ty chứng khoán. Về phía cơ quan quản lý thị trường, phải có trách nhiệm thẩm định hồ sơ, cấp phép và quản lý hoạt động của các tổ chức, cá nhân được cấp phép cung cấp dịch vụ môi giới theo quy định pháp luật hiện hành.

Ý nghĩa của nguyên tắc: một mặt góp phần đảm bảo cho chứng khoán giao dịch trên thị trường là chứng khoán có thực, hợp pháp, tránh sự giả mạo, lừa đảo trong giao dịch; mặt khác đảm bảo vai trò quản lý, kiểm soát của cơ quan tổ chức thị trường và hạn chế rủi ro cho các nhà đầu tư chứng khoán.

4.3. Nguyên tắc đấu giá

Giá chứng khoán được xác định thông qua việc đấu giá giữa các nhà môi giới hoặc so khớp giữa các lệnh mua và lệnh bán. Tất cả các thành viên tham gia thị trường đều không thể can thiệp trực tiếp vào việc ấn định giá.

Các hình thức đấu giá trên sở giao dịch chứng khoán

– Đấu giá trực tiếp: Là hình thức đấu giá, theo đó các nhà môi giới đại diện cho khách hàng của mình trực tiếp gặp nhau (mặt đối mặt trên sàn giao dịch) để thương lượng thông qua một chuyên gia chứng khoán của thị trường. Hình thức đấu giá này có đặc điểm:

  • Hệ thống giao dịch có sự xuất hiện của những nhà tạo lập thị trường (market makers /dealers) cho một số loại chứng khoán nào đó. Những nhà tạo lập thị trường có nghĩa vụ chào các mức giá mua và bán tốt nhất.
  • Giá thực hiện được xác định trên cơ sở cạnh tranh giữa những người tạo thị trường hưởng phần chênh lệch (spread) giữa giá mua và giá bán trong các giao dịch.

– Đấu giá gián tiếp: Là hình thức đấu giá, theo đó các nhà môi giới đại diện cho khách hàng của mình thương lượng giá mua bán chứng khoán thông qua một chuyên gia chứng khoán của thị trường. Hình thức đấu giá này có những đặc điểm tương  tự  đấu giá trực tiếp chỉ khác ở chỗ các nhà môi giới không trực tiếp mặt đối mặt ở một địa điểm nhất định mà đấu giá qua các phương tiện truyền tin như gọi điện thoại, sử dụng  mạng internet…

– Đấu giá tự động (khớp lệnh): Là hình thức đấu giá được thực hiện thông qua hệ thống máy tính kết nối giữa máy chủ của sở giao dịch chứng khoán và hệ thống máy tính của các công ty chứng khoán thành viên. Với hình thức này, các lệnh giao dịch của nhà đầu tư được cập nhật và truyền tới máy chủ của sở giao dịch chứng khoán, máy chủ tự động khớp các lệnh giao dịch theo chương trình đã được cài đặt. Máy chủ sẽ thông báo kết quả khớp lệnh cho các công ty chứng khoán thành viên.

Đặc điểm: lệnh giao dịch của nhà đầu tư được khớp trực tiếp với nhau không có sự tham gia của người tạo lập thị trường, giá thực hiện được xác định trên cơ sở cạnh tranh giữa những người đầu tư.

Tóm lược:

SGDCK hoạt động tuân thủ một số nguyên tắc: công khai, trung gian và đấu giá. Sở có nhiều thành viên, trong đó thành viên thường được nhắc đến là thành viên giao dịch. Đó chính là các CTCK, hoặc cá nhân hành nghề độc lập đã được Sở cấp giấy phép thành viên.

Rate this post

Leave A Reply

Your email address will not be published.